Bản án 64/2019/HNGĐ-ST ngày 25/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THẠCH THÀNH, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 64/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/09/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 25 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 171/2019/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 8 năm 2019 về: “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 09 tháng 9 năm 2019, giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trương Thị H; sinh năm: 1990; nơi cư trú: Thôn Cẩm Bộ, xã Thành Minh, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá. Có mặt.

- Bị đơn: Anh Quách Văn K; sinh năm: 1989; nơi cư trú: Thôn Minh Ba, xã Thành Tâm, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện, bản tự khai ngày 08/08/2019 và tại phiên tòa, nguyên đơn chị Trương Thị Huế trình bày: Chị và anh Quách Văn K kết hôn tự nguyện, đăng ký ngày 31/01/2012 tại Uỷ ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) xã Thành Minh, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá. Sau ngày cưới, cuộc sống vợ chồng hoà thuận được 06 năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, luôn bất đồng quan điểm. Anh Kiên sa đà vào tệ nạn xã hội, rượu chè và có người phụ nữ khác. Ngoài ra, gia đình anh Kiên đối xử ngược đãi, xua đuổi mẹ con chị. Hai bên gia đình đã khuyên giải nhiều lần nhưng vẫn không được. Vợ chồng chị đã sống ly thân từ tháng 06/2017 cho đến nay, không ai quan tâm tới ai. Không chịu được cuộc sống như vậy nên tháng 11/2018 chị có làm đơn xin ly hôn gửi xuống Toà án, sau đó vợ chồng đoàn tụ nên chị đã rút đơn ly hôn. Nhưng đến nay, tình trạng mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Chị xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, nên chị yêu cầu Toà án giải quyết cho chị được ly hôn anh K.

Về con cái: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Quách Phương Linh, sinh ngày 15/8/2012 và cháu Quách Nhật Anh, sinh ngày 28/4/2017. Hiện hai cháu đang ở với chị. Nếu ly hôn, chị có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cả hai cháu, yêu cầu anh Kiên cấp dưỡng nuôi con chung mỗi cháu mỗi tháng là 1.000.000đ (Một triệu đồng). Tại phiên tòa chị Huế không yêu cầu anh Kiên cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản: Chị H không yêu cầu Toà án giải quyết.

Tại bản tự khai ngày 05/08/2019 và tại phiên tòa, bị đơn anh Quách Văn K trình bày: Vợ chồng anh kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký ngày 31/01/2012 tại Uỷ ban nhân dân (sau đây viết tắt là UBND) xã Thành Minh, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá. Sau ngày cưới, cuộc sống vợ chồng hoà thuận được 06 năm thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, luôn bất đồng quan điểm. Ngoài ra do mâu thuẫn về kinh tế và có sự nghi ngờ nhau về lĩnh vực tình cảm. Vợ chồng anh đã sống ly thân từ tháng 06/2017 cho đến nay, không ai quan tâm tới ai. Nay anh xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, anh đồng ý ly hôn với chị Huế.

Về con cái: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Quách Phương Linh, sinh ngày 15/8/2012 và cháu Quách Nhật Anh, sinh ngày 28/4/2017. Nếu ly hôn, anh có nguyện vọng được trực tiếp nuôi dưỡng cháu Linh, giao cháu Nhật Anh cho chị Huế trực tiếp nuôi dưỡng, không ai phải cấp dưỡng nuôi con chung. Tại phiên tòa anh K đề nghị giao 02 con chung cho chị H nuôi dưỡng, anh không cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản: Anh K không yêu cầu Toà án giải quyết.

Ý kiến phát biểu của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa: Tòa án đã tuân thủ đúng quy định về trình tự thủ tục của Bộ luật tố tụng dân sự. Đề nghị HĐXX áp dụng điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn, xử cho chị Huế được ly hôn anh Kiên. Về con cái giao 02 cháu Quách Phương Linh, sinh ngày 15/8/2012 và cháu Quách Nhật Anh, sinh ngày 28/4/2017 cho chị Huế được trực tiếp nuôi dưỡng, anh Kiên không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên toà và căn cứ vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, HĐXX nhận định:

[1] Về hôn nhân: Chị Trương Thị H và anh Quách Văn K kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 31/01/2012 tại UBND xã Thành Minh, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá và không vi phạm các điều cấm của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000, là hôn nhân hợp pháp và thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo khoản 1 điều 28 BLTTDS. Trong cuộc sống hôn nhân, vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do tính tình vợ chồng không hợp, luôn bất đồng quan điểm trong cuộc sống sinh hoạt hàng ngày. Ngoài ra có sự mâu thuẫn về kinh tế và thiếu tin tưởng nhau trong lĩnh vực tình cảm vợ chồng. Vì vậy, vợ chồng đã sống ly thân từ tháng 06/2017 cho đến nay, không ai quan tâm tới ai. Hiện tại chị Huế và anh Kiên đều có nguyện vọng muốn ly hôn. Hội đồng xét xử xét thấy, mâu thuẫn vợ chồng đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, cần căn cứ điều 56 Luật hôn nhân và gia đình xử cho chị Huế được ly hôn anh Kiên để giải phóng cho nhau là cần thiết và phù hợp pháp luật.

[2] Về con cái: Chị Trương Thị H và anh Quách Văn K có 02 con chung là cháu Quách Phương Linh, sinh ngày 15/8/2012 và cháu Quách Nhật Anh, sinh ngày 28/4/2017. Hiện hai cháu đang ở với chị Huế. Chị Huế có nguyện vọng đươc trực tiếp nuôi dưỡng cả hai con. Xét điều kiện thực tế, cháu Linh giới tính là nữ, hiện nay đang sinh sống cùng chị Huế, cháu đang học tại Trường Tiểu học Thành Minh 1. Cháu có nguyện vọng muốn được ở với mẹ khi bố mẹ ly hôn. Còn cháu Nhật Anh còn nhỏ (hơn 2 tuổi) rất cần tình cảm và sự quan tâm chăm sóc của người mẹ. Để đảm bảo khả năng phát triển bình thường và điều kiện học hành ổn định cho con trẻ, tránh sự xáo trộn trong cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày của các cháu. Nghĩ nên, chấp nhận yêu cầu của chị Huế, giao cả 2 con cho chị Huế trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với hoàn cảnh thực tế, giới tính, nguyện vọng của cháu Linh và các quy định của pháp luật. Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung chị Huế không yêu cầu nên miễn xét.

[3] Về tài sản: Chị H, anh K không yêu cầu nên miễn xét.

[4] Về án phí: Chị H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 1 điều 28, khoản 4 điều 147 BLTTDS; Điểm a khoản 1 điều 24, điểm a khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 quy định về mức thu án phí và lệ phí Toà án:

1. Về hôn nhân: Xử cho chị Trương Thị H được ly hôn anh Quách Văn K.

2. Về con cái: Giao cháu Quách Phương Linh, sinh ngày 15/8/2012 và cháu Quách Nhật Anh, sinh ngày 28/4/2017 cho chị Huế trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi thành niên. Anh Ki không phải cấp dưỡng nuôi con chung.

Anh K có quyền đi lại thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Trương Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm ngàn đồng) án phí dân sự sơ thẩm về việc xin ly hôn, nhưng được trừ vào số tiền chị đã nộp tạm ứng tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thành, theo biên lai số AA/2016/0003727 ngày 01/8/2019. Chị H đã nộp đủ tiền án phí.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Án xử công khai sơ thẩm, có mặt chị Trương Thị H và anh Quách Văn K. Chị H và anh K có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

165
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2019/HNGĐ-ST ngày 25/09/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:64/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thạch Thành - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về