Bản án 64/2019/HNGĐ-ST ngày 22/11/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ỨNG HÒA – TP HÀ NỘI

BẢN ÁN 64/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 22 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 334/2019/TLST- HNGĐ ngày 18 tháng 9 năm 2019 về tranh chấp Hôn nhân và gia đình theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 66/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 21 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 45/2019/QĐST-HNGĐ ngày 06 tháng 11 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Nguyễn Thị Hồng H – sinh năm 1993 (Có mặt)

 Nguyên quán: xã X, huyện X1, tỉnh Nam Định

Nơi ĐKHKTT: Thôn C, xã Q, huyện Ư, thành phố Hà Nội

2. Bị đơn: Anh Trần Ngọc T – sinh năm 1996 (vắng mặt)

Nơi ĐKHKTT: Thôn C, xã Q, huyện Ư, thành phố Hà Nội

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn ly hôn, biên bản lấy lời khai, biên bản hòa giải chị Nguyễn Thị Hồng H là nguyên đơn trình bày: Chị và anh T qua một thời gian tìm hiểu thì cả hai kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại UBND xã Quảng Phú Cầu năm 2016. Sau khi kết hôn, hai vợ chồng sống hạnh phúc được một thời gian thì phát sinh mâu thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không thể tìm thấy tiếng nói chung. Đặc biệt anh T cũng như gia đình anh thường xuyên chơi cờ bạc, chị khuyên bảo thì có lần anh T và gia đình đánh chị; hơn nữa anh thường xuyên vay tiền chơi cờ bạc dẫn đến nợ nần; chị xin đi làm thì anh cũng như gia đình không đồng ý mà bắt chị pH ở nhà trông con. Mâu thuẫn càng ngày càng trở nên trầm trọng cuối tháng 6/2018 khi hai vợ chồng xô xát, cãi nhau thì cả gia đình anh T đánh chị nên chị có gọi điện thoại cho bố mẹ để đến nói chuyện người lớn với nhau; xong cả hai bên không tìm thấy tiếng nói chung nên bố mẹ chị đã xin phép gia đình anh T cho chị về quê ngoại ở. Từ đó vợ chồng sống ly thân cho đến nay. Trong suốt thời gian ly thân, không ai quan tâm đến nhau. Nay chị nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, đã sống ly thân một thời gian nên chị xin được ly hôn anh T. Về con chung, chị và anh T có 01 con chung là cháu Trần Bảo A – sinh ngày 07/4/2017. Hiện cháu đang ở với anh T và ông bà nội. Chị cũng rất muốn được nuôi con xong hiện tại cháu đang ở ổn định với ông bà và bố nên chị không muốn xáo trộn cuộc sống của cháu; trong khi đó hiện tại chị đang đi thuê phòng trọ nên chị đồng ý để anh T tiếp tục nuôi cháu Bảo A; khi nào có điều kiện chị sẽ thay đổi quyền nuôi con sau. Tiền cấp dưỡng nuôi con chị sẽ chủ động. Về tài sản, công nợ chung: Chị không yêu cầu đề nghị Tòa giải quyết.

Anh Trần Ngọc T là bị đơn không có quan điểm, ý kiến gì.

Tại phiên tòa ngày hôm nay, anh Trần Ngọc T vắng mặt, chị Nguyễn Thị Hồng H có mặt và vẫn giữ nguyên ý kiến, không xuất trình thêm tài liệu chứng cứ nào khác.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Ứng Hòa có quan điểm: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã thực hiện đầy đủ các quy định về tố tụng dân sự như tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng cho các đương sự, tạo điều kiện cho họ được trình bày quan điểm, tiến hành hòa giải theo đúng quy định. Hội đồng tiến hành xét xử vụ án đúng quy định của pháp luật. Về nội dung vụ án: đề nghị Tòa giải quyết xử cho chị Nguyễn Thị Hồng H được ly hôn anh Trần Ngọc T.Về con chung: giao anh T là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Trần Bảo Anh – sinh ngày 07/4/2017. Chị H pH nộp án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được thẩm tra tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về tố tụng: Chị Nguyễn Thị Hồng H đã làm đơn ly hôn theo mẫu và đã đóng dự phí ly hôn theo đúng quy định của pháp luật. Đây là vụ án tranh chấp hôn nhân gia đình, Tòa án nhân dân huyện Ứng Hòa tiến hành thụ lý, giải quyết theo đúng quy định của pháp luật.

Trong quá trình giải quyết vụ án toà án đã tống đạt thông báo thụ lý vụ án, thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử, triệu tập anh Trần Ngọc T đến toà án làm việc theo đúng trình tự của Bộ luật tố tụng dân sự nhưng anh T không có mặt. Hội đồng xét xử đã mở phiên toà ngày 06/11/2019 nhưng do sự vắng mặt của anh T nên Hội đồng xét xử hoãn phiên toà, tại phiên toà hôm nay mặc dù được triệu tập hợp lệ nhưng anh T vẫn vắng mặt, căn cứ Điều 227, Điều 228 Bộ luật tố tụng dân sự Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử đối với vụ án.

[2] Về hôn nhân: Chị Nguyễn Thị Hồng H và anh Trần Ngọc T kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại UBND xã Quảng Phú Cầu ngày 08/11/2016 là hôn nhân hợp pháp. Sau một thời gian chung sống hạnh phúc thì xảy ra muân thuẫn nguyên nhân do bất đồng quan điểm sống, không tìm thấy tiếng nói chung nên dẫn đến thường xuyên xảy ra cãi vã nhau. Hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài. Nay chị H nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mục đích hôn nhân không đạt, vợ chồng đã sống ly thân một thời gian nên chị đề nghị Tòa giải quyết cho chị được ly hôn anh T.

Qua xác minh tại chính quyền địa phương cung cấp: cuộc sống chung giữa vợ chồng chị H và anh T liên tục xảy ra xích mích, cãi nhau nguyên nhân do vợ chồng bất đồng quan điểm sống và hơn nữa do anh T không tu chí làm ăn, chơi bời cờ bạc, nợ nần. Nay chị H có đơn ly hôn, chính quyền địa phương có ý kiến: đề nghị Tòa căn cứ theo quy định của pháp luật cũng như nguyện vọng của các bên giải quyết cho chị H được ly hôn anh T; về con chung thì tôn trọng ý kiến của các bên, giao cho anh T tiếp tục được nuôi con vì cháu đang ở ổn định môi trường.

Xét thấy cuộc sống giữa chị H và anh T mẫu thuẫn từ lâu đã đến mức trầm trọng, sống ly thân, mục đích hôn nhân không đạt. Hội đồng xét xử chấp nhận đơn xin ly hôn của chị H là phù hợp với Điều 56 Luật Hôn nhân gia đình.

[3] Về con chung: Chị Nguyễn Thị Hồng H và anh Trần Ngọc T có 01 con chung là Trần Bảo Anh – sinh ngày 07/4/2017. Chi H có quan điểm, hiện tại cháu Anh đang ở với anh T nên đề nghị Tòa giải quyết cho anh T tiếp tục nuôi con; còn tiền cấp dưỡng nuôi con thì chị sẽ tự chủ động mà không đề nghị Tòa giải quyết; anh T thì không có ý kiến, quan điểm.

Xét thấy, chị H tự nguyện đồng ý để anh T tiếp tục trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Trần Bảo A – sinh ngày 07/4/2017 không trái đạo đức, không trái pháp luật và cháu A đang ở ổn định môi trường sinh hoạt, học tập; đồng thời anh T không có ý kiến đề ngị gì. Vì vậy, giao anh T là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Bảo Anh là phù hợp với Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. Chị H không yêu cầu, đề nghị Tòa giải quyết tiền cấp dưỡng; anh T không có quan điểm nên tạm hoãn tiền cấp dưỡng nuôi con đối với chị H cho đến khi có thay đổi khác và chị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở là phù hợp với Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình.

[4] Về tài sản, công nợ chung: Chị Nguyễn Thị Hồng H không yêu cầu đề nghị Toà giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét. Trường hợp, sau này chị H và anh T có yêu cầu đề nghị thì sẽ giải quyết bằng vụ án khác.

[5] Về án phí và quyền kháng cáo: Chị Nguyễn Thị Hồng H phải nộp toàn bộ án phí ly hôn theo quy định pháp luật. Các đương sự có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 56; Điều 81, Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; Điều Điều 227, 228, khoản 4 Điều 147, Điều 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sư; Nghị quyết 326 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, xử:

1. Chị Nguyễn Thị Hồng H được quyền ly hôn anh Trần Ngọc T.

2. Về con chung: Giao anh Trần Ngọc T là người trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục cháu Trần Bảo A – sinh ngày 07/4/2017; Tạm hoãn tiền cấp dưỡng nuôi con đối với chị Nguyễn Thị Hồng H cho đến khi có thay đổi khác. Chị H có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Nguyễn Thị Hồng H phải nộp 300.000đ án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai số 0009322 ngày 18 tháng 9 năm 2019 của Chi cục Thi hành án Dân sự huyện Ứng Hòa, thành phố Hà Nội.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn và bị đơn có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

245
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2019/HNGĐ-ST ngày 22/11/2019 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:64/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Ứng Hòa - Hà Nội
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về