Bản án 64/2017/HSST ngày 23/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ TĨNH, TỈNH HÀ TĨNH

BẢN ÁN 64/2017/HSST NGÀY 23/11/2017 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 23 tháng 11 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Hà Tĩnh, xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 66/2017/ TL- HSST, ngày 10 tháng 11 năm 2017 đối với bị cáo:

PHẠM XUÂN H, sinh ngày 12/01/1982; Trú tại: Xóm T, xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An; Trình độ văn hoá: lớp 9/12; Nghề nghiệp: không; Con ông Phạm Huy N (đã chết) và bà Võ Thị H; Vợ: Võ Thị T và có 01 con sinh năm 2010; Tiền sự: Không; Tiền án: Bản án số 40/2014/HSST, ngày 05/12/2014 Tòa án nhân dân thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế xử phạt 09 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thi hành án tại Trại giam Bình Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế đến ngày 20/5/2015 chấp hành xong hình phạt. Bản án số 22/2015/HSST, ngày 31/12/2015 Tòa án nhân dân huyện Đức Thọ, tỉnh Hà Tĩnh xử phạt 15 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thi hành án tại Trại giam Xuân Hà, tỉnh Hà Tĩnh đến ngày 25/01/2017 chấp hành xong hình phạt trở về địa phương; Nhân thân: Bản án số 30/2007/HSST, ngày 19/12/2007 Tòa án nhân dân huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An xử phạt 12 tháng tù cho hưởng án treo, thời gian thử thách 24 tháng về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị bắt tạm giam từ ngày 02/8/2017, có mặt tại phiên tòa.

* Người bào chữa: Bà Nguyễn Thị T - Luật sư của Văn phòng Luật sư L thuộc Đoàn luật sư Hà Tĩnh do Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước cử.

* Người bị hại: Anh Bùi Quang C, sinh năm 1987; Trú tại: Khối phố 4, phường Đ, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: lao động tự do, vắng mặt.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Bùi Quang T, sinh năm 1951; Trú tại: Khối phố 4, phường Đ, thành phố H, tỉnh Hà Tĩnh; Nghề nghiệp: nhà báo, vắng mặt.

NHẬN THẤY

Bị cáo bị Viện kiểm sát nhân dân thành phố Hà Tĩnh truy tố về hành vi phạm tội như sau:

Sáng ngày 27/7/2017, Phạm Xuân H từ Nghệ An vào Hà Tĩnh để tìm việc làm, khi xe buýt qua thành phố H H xuống xe đi tìm tài sản để trộm cắp. Khoảng 22h00’ cùng ngày H đi đến số nhà 4..., đường H phát hiện xe máy Yamaha Jlanshe biển kiểm soát 43R2-5... dựng ở sân, H dắt xe ra ngoài sử dụng chìa khóa có sẵn mở khóa điện nổ máy điều khiển về nhà. Ngày 29/07/2017, H tháo biển kiểm soát xe để ở nhà rồi xuống thành phố V, tỉnh Nghệ An mua biển kiểm soát 37L6-1... của người bán đồng nát lắp vào xe sử dụng. Đến ngày 31/07/2017 khi đang điều khiển xe mô tô thì bị Công an xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An phát hiện đưa về trụ sở làm việc, H khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình. Chiếc xe trên là của ông

Bùi Quang T giao cho con trai là Bùi Quang C quản lý, sử dụng theo kết quả định giá tài sản xe trị giá 6.000.000 đồng

Tại bản cáo trạng số 67/CTr-KSĐT ngày 08/11/2017 Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hà Tĩnh đã truy tố Phạm Xuân H về tội "Trộm cắp tài sản" theo điểm c khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên luận tội giữ nguyên quan điểm như cáo trạng truy tố và đề nghị: Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138, điểm n, p khoản 1, 2 Điều 46 BLHS, xử phạt Phạm Xuân H từ 36 - 42 tháng tù.

Luật sư bào chữa đề nghị xem xét hoàn cảnh giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà; Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến Kiểm sát viên, bị cáo và người tham gia tố tụng khác.

XÉT THẤY

Tại phiên tòa bị cáo khai nhận: Sáng ngày 27/7/2017, Phạm Xuân H vào Hà Tĩnh để tìm việc làm, đến thị xã H H bán xe đạp đón xe buýt vào cảng Vũng Áng. Đến khoảng 22 giờ khi đi ngang qua thành phố H H nảy sinh ý định trộm cắp tài sản nên xuống xe đi bộ đến số nhà 4.., đường H phát hiện xe máy Yamaha Jlanshe biển kiểm soát 43R2-5... dựng ở sân, bị cáo vào dắt xe ra ngoài dùng chìa khóa có sẵn nổ máy điều khiển về nhà. Ngày 29/07/2017, H tháo biển kiểm soát xe để ở nhà rồi xuống thành phố V, tỉnh Nghệ An mua biển kiểm soát 37L6-1... của người bán đồng nát lắp vào xe sử dụng. Đến ngày 31/07/2017 khi đang điều khiển xe mô tô thì bị Công an xã N, huyện N, tỉnh Nghệ An phát hiện.

Lời khai của bị cáo phù hợp lời khai của những người bị hại, phù hợp với các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa.

Theo kết luận giám định pháp y tâm thần số 370/KLGĐ ngày 19/10/2017 của Viện pháp y tâm thần Trung ương kết luận: “Trước, trong khi thực hiện hành vi phạm tội và tại thời điểm giám định Phạm Xuân H có bệnh rối loạn nhân cách thực tổn. Bị cáo đủ khả năng nhận thức, hạn chế khả năng điều khiển hành vi”. Như vậy, bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo đã bí mật, lén lút chiếm đoạt tài sản của công dân có giá trị 6.000.000 đồng. Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết tội Phạm Xuân H phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Bị cáo đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý, theo quy định tại điểm b khoản 1 điều 49 BLHS “tái phạm nguy hiểm” là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt quy định tại điểm c khoản 2 Điều 138 BLHS.

Xét bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: “Hạn chế khả năng điều khiển hành vi”, “Thành khẩn khai báo” quy định tại điểm n, p khoản 1 Điều 46 BLHS. Gia đình bị cáo có hoàn cảnh khó khăn thuộc hộ nghèo là tình tiết giảm nhẹ quy định tại  khoản 2 Điều 46 BLHS.

Xét hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, bị cáo có hai tiền án về tội “Trộm cắp tài sản”, nhân thân xấu, cần xử phạt bị cáo mức án nghiêm minh cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian.

Xét luận tội và đề nghị của kiểm sát viên là có căn cứ, đúng pháp luật. Về mức án, xét thấy bị cáo được hưởng nhiều tình tiết giảm nhẹ, hoàn cảnh gia đình bị cáo rất khó khăn, con bị cáo khuyết tật, bị cáo bị hạn chế khả năng điều khiển hành vi nên cần xét xử mức án phù hợp.

Về dân sự: Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường, miễn xét.

Về xử lý vật chứng: 01 chìa khóa bị cáo làm công cụ phạm tội, biển kiểm soát 37L6-1... không có giá trị sử dụng theo quy định tại điểm a, đ khoản 2 Điều 76 BLTTHS tịch thu và tiêu hủy.

Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Phạm Xuân H phạm tội "Trộm cắp tài sản".

Áp dụng điểm c khoản 2 Điều 138; điểm n, p khoản 1, khoản 2 Điều 46 BLHS, xử phạt: Phạm Xuân H 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày bắt tạm giam 02/8/2017.

Về xử lý vật chứng:  Áp dụng Điều 74 và điểm a, đ khoản 2 Điều 76 BLTTHS tịch thu và tiêu hủy 01 chìa khóa bằng kim loại (ký hiệu TAT 928-1733) và 01 biển kiểm soát 37L6-1... theo biên bản giao nhận vật chứng ngày 10/11/2017 giữa Cơ quan Công an thành phố Hà Tĩnh và Chi cục thi hành án dân sự thành phố Hà Tĩnh.

Về án phí: Áp dụng Điều 98, khoản 1, 2 Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày  30/12/2016  của  Ủy  ban thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, buộc Phạm Xuân H phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Báo cho bị cáo, người bào chữa có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được Bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

258
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2017/HSST ngày 23/11/2017 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:64/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Hà Tĩnh - Hà Tĩnh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/11/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về