Bản án 64/2017/HNGĐ-ST ngày 21/08/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 64/2017/HNGĐ-ST NGÀY 21/08/2017 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON

Trong ngày 21 tháng 8 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 212/2017/TLST-HNGĐ ngày 30 tháng 3 năm 2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2017/QĐST-HNGĐ ngày 26 tháng 6 năm 2017 giữa các đương sự.

- Nguyên đơn: Anh Hồ Hoàng T, sinh năm 1979; thường trú: Ấp 7, xã H, huyện Phụng H, tỉnh Hậu Giang. Tạm trú: Số 10/20, khu phố N1, phường D, thị xã A, tỉnh Bình Dương. Có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

- Bị đơn: Chị Nguyễn Thị Mỹ X, sinh năm 1981; thường trú: Ấp 7, xã H, huyện Phụng H, tỉnh Hậu Giang. Tạm trú: Số 10/20, khu phố N1, phường D, thị xã A, tỉnh Bình Dương. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 19 tháng 01 năm 2017 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn anh Hồ Hoàng T trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Anh và chị Nguyễn Thị Mỹ X sau thời gian tìm hiểu khoảng 02 tháng thì tự nguyện chung sống với nhau vào năm 1997 nhưng đến năm 2008 mới đăng ký kết hôn, theo giấy chứng nhận kết hôn số 173, quyển số I, ngày 01/12/2008 tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Phụng H, tỉnh Hậu Giang. Sau khi kết hôn, anh và chị X sống tại xã H, huyện Phụng H, tỉnh Hậu Giang đến năm 2010 thì chuyển đến phường D, thị xã A, tỉnh Bình Dương. Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc đến năm 2016 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân mâu thuẫn là do chị X có quan hệ bất chính với người đàn ông khác, đi sớm về muộn, không quan tâm, chăm sóc chồng con và thường xuyên bỏ nhà đi nhưng không rõ đi đâu, thỉnh thoảng chị X mới về nhà. Anh T đã nhiều lần góp ý với chị X nhưng không có kết quả. Nay nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên anh T yêu cầu được ly hôn với chị X.

Về con chung: Vợ chồng có 01 con chung tên Hồ Thị Ngọc H, sinh ngày 15/12/1999. Hiện nay con đang sống chung với anh T. Sau khi ly hôn, anh T yêu được được trực tiếp nuôi dưỡng con chung và không yêu cầu chị X cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Nguyễn Thị Mỹ X đã được Toà án thông báo tham gia tố tụng, tống đạt các văn bản tố tụng nhưng chị X không đến Toà án làm việc, không cung cấp lời khai, không có yêu cầu phản tố nào, không cung cấp chứng cứ để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý cho đến tại phiên tòa, Tòa án và nguyên đơn chấp hành đúng pháp luật về tố tụng dân sự. Nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn không chấp hành theo quy định tại Điều 70 Bộ luật tố tụng dân sự. Căn cứ vào Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn là đúng quy định. Về nội dung vụ án: Yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn có căn cứ, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét, quyết định.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, ý kiến của kiểm sát viên tham gia phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về điều kiện thụ lý vụ án: Căn cứ vào đơn khởi kiện của anh Hồ Hoàng T thì đây là vụ án tranh chấp ly hôn, nuôi con quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn có địa chỉ tạm trú và sinh sống tại phường D, thị xã A, tỉnh Bình Dương nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã A theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Ngày 18/8/2017 nguyên đơn có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham gia phiên tòa vào các ngày 12/7/2017; ngày 31/7/2017 và ngày 16/8/2017 nhưng bị đơn vẫn vắng mặt không lý do. Căn cứ Điều 228 và Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Anh Hồ Hoàng T và chị Nguyễn Thị Mỹ X đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã H, huyện Phụng H, tỉnh Hậu Giang, theo giấy chứng nhận kết hôn số 173, quyền số I, ngày 01/12/2008, là hôn nhân hợp pháp. Anh T cho rằng vợ chồng chung sống hạnh phúc đến năm 2016 thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do chị X có quan hệ bất chính với người đàn ông khác, đi sớm về muộn, không quan tâm, chăm sóc chồng con và thường xuyên bỏ nhà đi nhưng không rõ đi đâu, thỉnh thoảng chị X mới về nhà, điều này chứng tỏ tình trạng hôn nhân của vợ chồng anh Hồ Hoàng T và chị Nguyễn Thị Mỹ X đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, anh Hồ Hoàng T yêu cầu được ly hôn với chị Nguyễn Thị Mỹ X là có căn cứ, phù hợp với quy định của Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Anh T và chị X có 01 con chung tên Hồ Thị Ngọc H, sinh ngày 15/12/1999. Hiện nay con đang sống chung với anh T. Xét thấy, trong thời gian trước đây và hiện nay cháu H do anh T trực tiếp nuôi dưỡng và đảm bảo tốt về mọi mặt, đồng thời tại bản tự khai ngày 08/6/2017, cháu H có nguyện vọng được sống với anh T. Do đó, anh T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng con chung là phù hợp với các Điều 81, 82 Luật Hôn nhân và gia đình. Anh T không yêu cầu chị X cấp dưỡng nuôi con, xét đây là ý chí tự nguyện của anh nên Hội đồng xét xử ghi nhận.

[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

[6] Từ những phân tích trên, có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã A, tỉnh Bình Dương.

[7] Về án phí dân sự sơ thẩm: Anh Hồ Hoàng T phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 4 Điều 147, Điều 228, Điều 238, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự; các Điều 51, 56, 58, 81, 82, 83 và 84 Luật Hôn nhân và Gia đình; Điểm a Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

1. Về quan hệ hôn nhân: Anh Hồ Hoàng T được ly hôn với chị Nguyễn Thị Mỹ X.

2. Về con chung: Giao cháu Hồ Thị Ngọc H, sinh ngày 15/12/1999 cho anh Hồ Hoàng T trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Ghi nhận sự tự nguyện của anh T không yêu cầu chị X cấp dưỡng nuôi con.

Sau ly hôn, anh T và chị X đều có quyền chăm sóc, thăm nom, giáo dục con, không ai có quyền cản trở ông, bà thực hiện quyền này. Trường hợp chị X lạm dụng việc đi lại, thăm nom con gây ảnh hưởng xấu đến việc anh T nuôi con thì anh T có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của chị X theo quy định của pháp luật. Vì lợi ích về mọi mặt của con khi một hoặc cả hai bên đương sự có yêu cầu, Tòa án sẽ quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và việc cấp dưỡng.

3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Đương sự không yêu cầu nên Tòa án không xem xét, giải quyết.

4. Về án phí: Anh Hồ Hoàng T phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu số 0009080, ngày 29/3/2017 của Chi cục thi hành án dân sự thị xã A, tỉnh Bình Dương.

5. Án xử công khai, tuyên án vắng mặt các đương sự.

6. Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 64/2017/HNGĐ-ST ngày 21/08/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con

Số hiệu:64/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 21/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về