Bản án 637/2017/HNGĐ-ST ngày 25/09/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN THUỶ NGUYÊN, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG

BẢN ÁN 637/2017/HNGĐ-ST NGÀY 25/09/2017 VỀ TRANH CHÁP LY HÔN, NUÔI CON KHI LY HÔN

Ngày 25 tháng 09 năm 2017 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện T, thành phố Hải Phòng xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 359/2017/TLST-HNGĐ ngày 19 tháng 05 năm 2017 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 328/2017/QĐXX- ST ngày 24 tháng 08 năm 2017 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Chị Hoàng Thị Thu H, sinh năm 1995; đăng ký hộ khẩu thường trú: Thôn 8, xã AS, huyện T, thành phố Hải Phòng; chỗ ở hiện nay: Thôn PC, xã LX, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt và có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt.

2. Bị đơn: Anh Trương Văn Ph, sinh năm 1993; địa chỉ: Thôn 8, xã AS, huyện T, thành phố Hải Phòng; vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là chị Hoàng Thị Thu H trình bày: Chị kết hôn với anh Trương Văn Ph trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện và có đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân xã AS, huyện T, thành phố Hải Phòng vào ngày 01 tháng 10 năm 2014. Sau khi kết hôn vợ chồng chị chung sống với nhau tại nhà bố mẹ đẻ anh Trương Văn Ph tại Thôn 8, xã AS, huyện T, thành phố Hải Phòng. Quá trình chung sống vợ chồng hòa thuận hạnh phúc đến cuối năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm sống, anh Trương Văn Ph không quan tâm chăm lo tới gia đình và vợ con dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị và anh Ph đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn vợ chồng nên chị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại Thôn PC, xã LX, huyện T, thành phố Hải Phòng sinh sống từ cuối năm 2016 và vợ chồng chị sống ly thân nhau từ đó đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị Hoàng Thị Thu H khẳng định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Trương Văn Ph không còn, vợ chồng không có khả năng đoàn tụ, chị đề nghị Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn với anh Trương Văn Ph.

Về con chung: Chị Hoàng Thị Thu H trình bày vợ chồng chị có 01 con chung tên Trương Nhất Ph, sinh ngày 28 tháng 01 năm 2015. Hiện nay con đang do chị trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị đề nghị Tòa án giải quyết để chị tiếp tục nuôi con tên Trương Nhất Ph. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung không yêu cầu anh Trương Văn Ph cấp dưỡng nuôi con chung nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị Thu H trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ ai và không cho ai vay nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Trương Văn Ph đã được Tòa án tống đạt hợp lệ Thông báo về việc thụ lý vụ án, Thông báo về việc kiểm tra giao nộp tiếp cận công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng đến ngày mở phiên tòa lần thứ hai anh Trương Văn Ph vẫn không có ý kiến trình bày về yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Hoàng Thị Thu H.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của nguyên đơn trong quá trình giải quyết vụ án đã tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Nguyên đơn chị Hoàng Thị Thu H vắng mặt và có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; bị đơn là anh Trương Văn Ph đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do, Kiểm sát viên đề nghị Tòa án căn cứ Điều 28; Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; Điều 56; Điều 81; Điều 82 và Điều 83 Luật hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là chị Hoàng Thị Thu H; tiến hành xét xử vắng mặt các bên đương sự. Về con chung và tài sản chung đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật giải quyết.

Các tài liệu, chứng cứ do đương sự cung cấp và Tòa án thu thập gồm: Bản sao Giấy khai sinh của con; Bản sao Sổ hộ khẩu gia đình; Giấy chứng nhận kết hôn; Bản sao Giấy chứng minh nhân dân; Biên bản xác minh tại Ủy ban nhân dân xã AS, huyện T, thành phố Hải Phòng; Biên bản xác minh tại gia đình anh Trương Văn Ph.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Nguyên đơn là chị Hoàng Thị Thu H vắng mặt và có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt; bị đơn là anh Trương Văn Ph đã được Toà án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vắng mặt không có lý do. Căn cứ khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các bên đương sự.

[2] Về quan hệ hôn nhân: Xét quan hệ hôn nhân giữa chị Hoàng Thị Thu H và anh Trương Văn Ph kết hôn trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn là hôn nhân hợp pháp. Quá trình chung sống vợ chồng hoà thuận hạnh phúc đến năm 2015 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn do tính tình vợ chồng không hòa hợp, bất đồng quan điểm trong cuộc sống, anh Trương Văn Ph không quan tâm chăm lo tới gia đình và vợ con dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau. Mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh Ph đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Do mâu thuẫn vợ chồng nên chị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại Thôn PC, xã LX, huyện T, thành phố Hải Phòng sinh sống từ cuối năm 2016 và vợ chồng chị H, anh Ph đã sống ly thân nhau từ đó đến nay, không ai quan tâm đến ai. Nay chị Hoàng Thị Thu H khẳng định tình cảm vợ chồng giữa chị và anh Trương Văn Ph không còn, vợ chồng không còn khả năng đoàn tụ, chị đề nghị Tòa án giải quyết xin được ly hôn anh Trương Văn Ph. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ Thông báo thụ lý vụ án, Thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, Quyết định đưa vụ án ra xét xử nhưng anh Trương Văn Ph đều vắng mặt không có lý do và không có ý kiến trình bày về yêu cầu khởi kiện xin ly hôn của chị Hoàng Thị Thu H. Tài liệu xác minh tại địa phương và gia đình anh Trương Văn Ph thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh Ph đã kéo dài từ năm 2015 đến nay, nguyên nhân mâu thuẫn là do tính tình vợ chồng không hòa hợp, công việc của anh Ph thường xuyên xa nhà, không quan tâm đến gia đình vợ con dẫn đến vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi nhau. Do mâu thuẫn nên chị H đã bỏ về nhà bố mẹ đẻ tại Thôn PC, xã LX, huyện T, thành phố Hải Phòng sinh sống từ cuối năm 2016 và vợ chồng chị H, anh Ph đã sống ly thân nhau từ đó đến không ai quan tâm đến ai. Mặc dù mâu thuẫn vợ chồng giữa chị H và anh Ph đã được gia đình hòa giải nhưng không có kết quả. Như vậy, thể hiện mâu thuẫn vợ chồng giữa chị Hoàng Thị Thu H và anh Trương Văn Ph đã kéo dài trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy căn cứ Điều 51, Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của chị Hoàng Thị Thu H, cho chị Hoàng Thị Thu H được ly hôn anh Trương Văn Ph.

[3] Về con chung: Chị Hoàng Thị Thu H trình bày vợ chồng chị có 01 con chung tên Trương Nhất Ph, sinh ngày 28 tháng 01 năm 2015. Hiện nay con đang do chị trực tiếp nuôi dưỡng. Khi ly hôn chị đề nghị Tòa án giải quyết để chị tiếp tục nuôi con tên Trương Nhất Ph. Trong quá trình giải quyết vụ án anh Trương Văn Ph không có ý kiến trình bày về con chung. Tuy nhiên việc giao con cho ai nuôi cần xem xét để đảm bảo quyền lợi về mọi mặt của con chưa thành niên. Tài liệu xác minh tại địa phương và gia đình anh Trương Văn Ph thể hiện từ khi vợ chồng chị H và anh Ph sống ly thân nhau đến nay, chị Hoàng Thị Thu H là người trực tiếp nuôi con tên Trương Nhất Ph. Xét thấy con Trương Nhất Ph, sinh ngày 28 tháng 01 năm 2015 hiện nay còn nhỏ dưới 36 tháng tuổi và việc nuôi con của chị Hoàng Thị Thu H kể từ khi vợ chồng sống ly thân nhau đến nay đã ổn định và chị H vẫn đảm bảo tốt về mọi mặt cho con. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định giao con tên Trương Nhất Ph, sinh ngày 28 tháng 01 năm 2015 cho chị Hoàng Thị Thu H trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp với quy định tại Điều 81, 82, 83 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Chị Hoàng Thị Thu H không yêu cầu anh Trương Văn Ph cấp dưỡng nuôi con chung. Quá trình giải quyết vụ án, anh Trương Văn Ph chưa có ý kiến trình bày về cấp dưỡng nuôi con chung, vì vậy Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.

[4] Về tài sản chung: Chị Hoàng Thị Thu H trình bày vợ chồng không có tài sản chung, không vay nợ ai và không cho ai vay nên không yêu cầu Tòa án giải quyết. Quá trình giải quyết vụ án, anh Trương Văn Ph chưa có ý kiến trình bày về tài sản chung nên Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết trong vụ án này.

[5] Về án phí:

Căn cứ Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án. Chị Hoàng Thị Thu H phải nộp 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28; Điều 147; khoản 2 Điều 227; khoản 1 Điều 228; Điều 238 của Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51; Điều 56; Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 27 của Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, nộp, quản lý và sử dụng án phí lệ phí Tòa án, xử :

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho chị Hoàng Thị Thu H được ly hôn anh Trương Văn Ph.

2. Về con chung: Giao con tên Trương Nhất Ph, sinh ngày 28 tháng 01 năm 2015 cho chị Hoàng Thị Thu H trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi con đủ 18 tuổi và có khả năng lao động hoặc có thay đổi khác theo quy định của pháp luật.

Sau khi ly hôn người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

3. Về án phí: Chị Hoàng Thị Thu H phải nộp 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm nhưng trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000đồng (Ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0000975 ngày19 tháng 05 năm 2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện T thành phố Hải Phòng. Chị Hoàng Thị Thu H đã nộp đủ án phí ly hôn sơ thẩm.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án này được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 637/2017/HNGĐ-ST ngày 25/09/2017 về tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn

Số hiệu:637/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuỷ Nguyên - Hải Phòng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về