Bản án 634/2018/HNGĐ-ST ngày 22/05/2018 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 634/2018/HNGĐ-ST NGÀY 22/05/2018 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 22 tháng 5 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 127/2018/TLST-HNGĐ ngày 05 tháng 4 năm 2018 về việc “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 2058/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 08 tháng 5 năm 2018 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Bà Nguyễn Hoàng Bảo T, sinh năm 1992

Địa chỉ: 14/1C T 1, xã H, huyện K, Thành phố Hồ Chí Minh. Bị đơn: Ông Cao Tấn Đ, sinh năm 1984

Địa chỉ: 08 E Ct Savannah, GA 31406, USA

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 27/02/2018 và bản tự khai ngày 12/4/2018, nguyên đơn bà Nguyễn Hoàng Bảo T trình bày:

Bà và ông Cao Tấn Đ tự nguyện tìm hiểu kết hôn với nhau vào năm 2015, có làm thủ tục đăng ký kết hôn ngày 01/9/2015 tại Ủy ban nhân dân xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh.

Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc bình thường cho đến khi bà sinh con vào khoảng tháng 03/2016 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do sau khi sinh và chăm sóc con nhỏ, có nhiều sự việc thay đổi làm ảnh hưởng tình cảm vợ chồng. Trong thời gian này, ông Đ tự ý làm thủ tục đi nước ngoài du học mà không cho bà biết. Sau khi biết ông Đ đi nước ngoài bà có khuyên can nhưng ông Đ không nghe. Từ khi ông Đ đi du học đến nay vợ chồng rất ít liên lạc với nhau. Bà xác định tình cảm vợ chồng không còn khả năng hàn gắn để tiếp tục đời sống chung nên yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn.

Về con chung: vợ chồng có một người con chung tên là Cao Hoàng Bảo T, sinh ngày 30/3/2016. Bà là người đang trực tiếp nuôi dưỡng con chung. Khi ly hôn bà có nguyện vọng được tiếp tục nuôi dưỡng con, không yêu cầu ông Đ thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: không có.

Tại Đơn xin vắng mặt ngày 03/4/2018 của bị đơn ông Cao Tấn Đ được Đại sứ quán nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Wasington D.C, Hợp chúng quốc Hoa Kỳ chứng nhận chữ ký ngày 04/4/2018 có nội dung như sau:

Ông và bà Nguyễn Hoàng Bảo T kết hôn tự nguyện vào ngày 01/9/2015 tại UBND xã H, huyện K, Thành phố Hồ Chí Minh. Sau khi đăng ký kết hôn ông đi nước ngoài sinh sống, học tập và làm việc. Từ ngày ông đi nước ngoài thì hai vợ chồng xa cách, ít liên lạc với nhau, mỗi khi liên lạc thì phát sinh mâu thuẫn nhưng vì điều kiện ở xa nhau nên mâu thuẫn không giải quyết được. Nay bà Nguyễn Hoàng Bảo T nộp đơn yêu cầu ly hôn, ông đồng ý để đôi bên ổn định cuộc sống riêng của mình.

Về con chung: có một người con chung tên là Cao Hoàng Bảo T, sinh ngày 30/3/2016. Ông đồng ý giao con cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng, ông sẽ cấp dưỡng nuôi con khi bà T có yêu cầu.

Về tài sản chung và nợ chung: xác nhận không có.

Tại phiên tòa sơ thẩm nguyên đơn bà Nguyễn Hoàng bảo T, bị đơn ôngCao Tiến Đ vắng mặt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về áp dụng pháp luật tố tụng:

Nguyên đơn bà Nguyễn Hoàng Bảo T đang cư trú tại Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam; bị đơn ông Cao Tấn Đ cư trú tại Hoa Kỳ; giữa đôi bên có tranh chấp về hôn nhân và gia đình nên vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam theo quy định tại Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37; điểm a khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 469 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Tại phiên tòa sơ thẩm; các bên đương sự đều có Đơn đề nghị xét xử vắng mặt. Căn cứ quy định tại Điều 227, Điều 228, Điều 238 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt các đương sự.

[2] Về áp dụng pháp luật nội dung:

Xét yêu cầu của nguyên đơn nhận thấy:

Bà Nguyễn Hoàng Bảo T và ông Cao Tấn Đ tự nguyện kết hôn với nhau vào năm 2015, có làm thủ tục đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số102 quyển số 01/2015 ngày 01/9/2015 của Ủy ban nhân dân xã Tân Hiệp, huyệnHóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Như vậy, hôn nhân giữa đôi bên là hợp pháp kể từ thời điểm đăng ký kết hôn.

Theo lời khai của bà T: sau khi kết hôn vợ chồng chung sống với nhau hạnh phúc bình thường cho đến khi bà sinh con và ông Đ tự quyết định đi du học ở nước ngoài thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu do chưa thực sự hiểu và tin tưởng nhau, bất đồng về cách sống dẫn đến tình cảm vợ chồng rạn nứt, lạnh nhạt. Dù bà mong muốn tạo điều kiện để hàn gắn tình cảm vợ chồng nhưng vì ở cách xa nhau nên vẫn không kết quả. Từ đó, bà xác định tình cảm vợ chồng không còn, không thể tiếp tục cuộc sống chung hạnh phúc và có yêu cầu ly hôn. Ý kiến ông Cao Tấn Đ cũng xác nhận mâu thuẫn giữa vợ chồng ngày càng trầm trọng, ông đồng ý ly hôn theo yêu cầu của bà T.

Xét, tình nghĩa vợ chồng phải xuất phát từ cả hai phía cùng có nghĩa vụ thương yêu, tôn trọng và cùng có trách nhiệm quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau. Thực tế vợ chồng đã không còn muốn tiếp tục sống cùng nhau, không tạo được điều kiện hàn gắn tình cảm vợ chồng để xây dựng cuộc hôn nhân hạnh phúc. Do đó, nếu tiếp tục kéo dài quan hệ hôn nhân nói trên thì mục đích của hôn nhân cũng không thể đạt được. Xét, yêu cầu được chấm dứt quan hệ hôn nhân của bà T là có căn cứ pháp luật nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

Về con chung: Lời khai bà T, ông Đ thống nhất có một người con chung tên Cao Hoàng Bảo T, sinh ngày 30/3/2016 hiện đang ở với mẹ. Đôi bên cũng thỏa thuận giao bà T tiếp tục nuôi dưỡng con chung; bà T tự nguyện không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con do bà có khả năng kinh tế để lo cho con.

Xét, người con chung còn rất nhỏ chưa đủ 36 tháng tuổi, hiện đang sống cùng với bà T do bà T trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục. Để đảm bảo quyền lợi mọi mặt cho người con được phát triển toàn diện và được sống ổn định, Hội đồng xét xử chấp nhận sự thỏa thuận của đôi bên, giao người con chung cho bà T tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp với qui định pháp luật. Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con, bà T tự nguyện không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Về tài sản chung và nợ chung: Đôi bên khai không có. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 đồng nguyên đơn chịu.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 37; khoản 2 Điều 38; Điều 464; Điều 469; Điều 474; Điều 477; Điều 479 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;

Căn cứ Điều 19, Điều 51, Điều 54, Điều 56, Điều 57, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 122, Điều 123, Điều 127 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;Căn cứ Luật phí và lệ phí;Căn cứ Luật Thi hành án dân sự 2008;Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn;

1. Về quan hệ hôn nhân: Bà Nguyễn Hoàng Bảo T được ly hôn ông Cao Tấn Đ.

Giấy chứng nhận kết hôn số 102, Quyển số 01/2015 ngày 01/9/2015 của Ủy ban nhân dân xã Tân Hiệp, huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh không còn giá trị pháp lý kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật.

2. Về con chung: Giao bà Nguyễn Hoàng Bảo T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng người con chung Cao Hoàng Bảo T, sinh ngày 30/3/2016. Ghi nhận bà T tự nguyên không yêu cầu ông Đ cấp dưỡng nuôi con.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Cha, mẹ trực tiếp nuôi con cùng các thành viên gia đình không được cản trở người không trực tiếp nuôi con trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con. Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định tại khoản 5 Điều 84 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con.

3. Về tài sản chung và nợ chung: không có.

4. Án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm: 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng bà Nguyễn Hoàng Bảo T nộp tại Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, cấn trừ tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng bà T đã nộp tại Biên lai thu số AA/2017/0044102 ngày 02/4/2018 của Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí Minh, bà T đã nộp đủ án phí.

Án xử công khai vắng mặt nguyên đơn bà Nguyễn Hoàng Bảo T và bị đơn ông Cao Tấn Đ; bà Nguyễn Hoàng Bảo T được quyền kháng cáo trong thời hạn15 (Mười lăm) ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ, ông Cao Tấn Đ được quyền kháng cáo trong thời hạn 01 (một) tháng kể từ ngày bản án được tống đạt hoặc niêm yết hợp lệ.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

143
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 634/2018/HNGĐ-ST ngày 22/05/2018 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:634/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về