Bản án 632/2017/HNGĐ-ST ngày 30/08/2017 về ly hôn giữa ông T và bà D

TOÀ ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 632/2017/HNGĐ-ST NGÀY 30/08/2017 VỀ LY HÔN GIỮA ÔNG T VÀ BÀ D

Ngày 30 tháng 8 năm 2017 tại Trụ sở Toà án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 377/2017/TLST- HNGĐ ngày 30/5/2017 về “Ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 395/2017/QĐXX-ST ngày 07/8/2017 và Quyết định hoãn phiên tòa số 268/2017/QĐST-HPT ngày 22/8/2017 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: ông Nguyễn Văn T., sinh năm 1988 (có đơn xin vắng mặt)

Địa chỉ: đường P, phường A, quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Bị đơn: Bà Lâm Thảo D., sinh năm 1989 (vắng mặt)

Địa chỉ: đường G, Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn xin ly hôn nộp ngày 23/5/2017 và trong quá trình giải quyết, nguyên đơn ông Nguyễn Văn T. trình bày: ông và bà D. tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2010, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh theo giấy chứng nhận kết hôn số 47, quyển số 01/2011 ngày 26/8/2011, có 01 con chung tên Nguyễn Anh K., sinh ngày 23/10/2011.

Sau khi kết hôn, vợ chồng ông sống tại nhà số đường V, Phường C, Quận B, TP.HCM nhưng thường xuyên xảy ra mâu thuẫn do không hòa hợp về tính tình, về quan điểm sống, thời điểm bà D. sinh con thì ông làm ăn thất bại nên phải đi làm xa, một tháng chỉ về nhà vài lần để thăm con nên mâu thuẫn giữa hai bên ngày càng trầm trọng. Do không cải thiện được mối quan hệ nên cuối năm 2011 ông đã về nhà cha mẹ ruột sống cho đến nay. Nay, nhận thấy mục đích hôn nhân không đạt được ông xác định không còn tình cảm với bà D. nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ông ly hôn với bà Lâm Thảo D..

Về con chung: ông Nguyễn Văn T. yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng trẻ Nguyễn Anh K., sinh ngày 23/10/2011cho đến khi thành niên, không yêu cầu bà Lâm Thảo D. cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Ông T. xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Phía bị đơn bà Lâm Thảo D. đã được Tòa án triệu tập đến Tòa để trình bày ý kiến về việc nguyên đơn yêu cầu ly hôn nhưng cố tình vắng mặt không có lý do nên Tòa án không ghi nhận ý kiến và không tiến hành hòa giải được.

Tại phiên tòa, nguyên đơn ông Nguyễn Văn T. có đơn xin xét xử vắng mặt, vẫn giữ nguyên các ý kiến đã trình bày, ngoài ra không có yêu cầu gì khác. Bị đơn bà Lâm Thảo D. vắng mặt tại phiên tòa đến lần thứ hai.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 phát biểu ý kiến: Việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán và của Hội đồng xét xử kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án đã đảm bảo các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng, nguyên đơn chấp hành đúng quy định của pháp luật, tại phiên tòa bị đơn bà Lâm Thảo D. đã được Tòa án tống đạt hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt lần thứ 2 nên Tòa án xét xử vắng mặt là đúng theo quy định pháp luật. Qua kiểm sát vụ án tại phiên tòa đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, cho ông Nguyễn Văn T. được ly hôn với bà Lâm Thảo D., giao con chung Nguyễn Anh K., sinh ngày 23/10/2011 cho ông T. trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi thành niên. Ông T. không yêu cầu bà D. cấp dưỡng nuôi con nên không đề cập giải quyết. Về tài sản chung và nợ chung: ông T. xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1]. Hình thức, nội dung đơn yêu cầu ly hôn của ông Nguyễn Văn T. thực hiện đúng quy định tại các Điều 189 Bộ luật tố tụng dân sự nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.

 [2]. Yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn ông Nguyễn Văn T. đối với bị đơn bà Lâm Thảo D. có nơi cư trú tại Quận 6 nên căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự, Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh có thẩm quyền giải quyết vụ án.

 [3]. Quan hệ hôn nhân giữa ông Nguyễn Văn T. và bà Lâm Thảo D. phát sinh từ năm 2010 có đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định tại Điều 9 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 là hôn nhân hợp pháp.

 [4]. Về yêu cầu xin ly hôn của nguyên đơn:

Nguyên đơn ông Nguyễn Văn T. trình bày mâu thuẫn vợ chồng phát sinh từ cuối năm 2011 do không còn hòa hợp nhau về mọi mặt, vợ chồng có mâu thuẫn về kinh tế, không có niềm tin dành cho nhau nên thường xảy ra gây cãi. Đến cuối năm 2011 mâu thuẫn hai bên trầm trọng nên ông đã về nhà cha mẹ ruột sống cho đến nay. Nay ông xác định tình cảm không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với bà Lâm Thảo D..

Phía bị đơn bà Lâm Thảo D. vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án nên không ghi nhận được ý kiến.

Theo Điều 19 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 quy định: “Vợ chồng có nghĩa vụ thương yêu, chung thủy, tôn trọng, quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ nhau; cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình...” nhưng qua lời trình bày của nguyên đơn thì giữa vợ chồng đã phát sinh nhiều mâu thuẫn, cả hai đã không có niềm tin, không có sự quan tâm, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau vun đắp cho cuộc sống gia đình. Từ cuối năm 2011 cho đến nay hai bên đã sống ly thân nhưng vẫn không cải thiện được mối quan hệ. Từ khi thụ lý vụ án, Tòa án đã nhiều lần tiến hành hòa giải tạo điều kiện cho vợ chồng bà D., ông T. hàn gắn tình cảm, trở về đoàn tụ, tuy nhiên, phía bị đơn vắng mặt trong suốt quá trình Tòa án giải quyết vụ án dù đã được triệp tập hợp lệ, chứng tỏ bị đơn không mong muốn hàn gắn tình cảm vợ chồng. Do đó Hội đồng xét xử xét thấy có cơ sở chấp nhận yêu cầu ly hôn của nguyên đơn.

[5]. Về con chung: Ông Nguyễn Văn T. yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục con chung Nguyễn Anh Khoa, sinh ngày 23/10/2011 cho đến khi thành niên, Hội đồng xét xử xét thấy: gia đình của ông T. và bà D. hiện nay sống gần nhau nên trẻ K. cũng thường xuyên qua lại giữa hai nhà, hiện nay ông T. là người trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu K.; có việc làm và thu nhập ổn định, căn cứ khoản 2 Điều 81 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 Hội đồng xét xử chấp nhận giao con chung Nguyễn Anh K., sinh ngày 23/10/2011 cho ông Nguyễn Văn T. nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi thành niên, ghi nhận sự tự nguyện của ông T. không yêu cầu bà D. cấp dưỡng nuôi con.

[6]. Về tài sản chung và nợ chung: Ông Nguyễn Văn T. xác định không có, không yêu cầu giải quyết nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[7]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Ông Nguyễn Văn T. là nguyên đơn nên phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[8] Về quyền kháng cáo: Ông Nguyễn Văn T. và bà Lâm Thảo D. được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1Điều 39, khoản 4 Điều 147 và Điều 189, Điều 227, Điều 266, Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015; Các Điều 9, 51, 53, 56, 81, 82, 83, 84 và Điều 85 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; Điều 26 của Luật thi hành án dân sự năm 2008; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý, sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa ông Nguyễn Văn T. và bà Lâm Thảo D..

 (Giấy chứng nhận kết hôn số 47, quyển số 01/2011 ngày 26/8/2011 do Ủy ban nhân dân Phường A, Quận B, Thành phố Hồ Chí Minh cấp không còn giá trị kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật).

2. Về nuôi con chung: Giao con chung Nguyễn Anh K., sinh ngày 23/10/2011 cho ông Nguyễn Văn T. trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi thành niên. Ông T. không yêu cầu bà D. cấp dưỡng nuôi con. 

Bà Lâm Thảo D. có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với ông Nguyễn Văn T. .

Ông Nguyễn Văn T. phải tạo mọi điều kiện cho bà Lâm Thảo D. khi đến thăm nom con mà không ai được cản trở.

Vì quyền và lợi ích của con, khi cần thiết thì một hoặc cả hai bên đều có quyền thay đổi việc nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

Trường hợp bà Lâm Thảo D. lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì ông Nguyễn Văn T. có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của bà Lâm Thảo D..

3. Về tài sản chung và nợ chung: ông Nguyễn Văn T. xác định không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.

4. Án phí dân sự sơ thẩm: là 300.000 đồng ông Nguyễn Văn T. phải chịu; nhưng được cấn trừ vào số tiền tạm ứng án phí mà ông đã nộp là 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) theo biên lai thu số 0027719 ngày 30/5/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh. Ông Nguyễn Văn T. đã nộp đủ án phí.

5. Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

6. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

324
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 632/2017/HNGĐ-ST ngày 30/08/2017 về ly hôn giữa ông T và bà D

Số hiệu:632/2017/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 30/08/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về