TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN A, TỈNH AN GIANG
BẢN ÁN 63/2021/HNGĐ-ST NGÀY 16/03/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH, LY HÔN
Trong ngày 16 tháng 3 năm 2021, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện A xét xử sơ thâm công khai vu an dân sự thụ lý số : 481/2020/TLST - HNGĐ ngày 15 tháng 12 năm 2020 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 46/2021/QĐST-HNGĐ ngày 03/02/2021 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Bà Ngô Thị Kim N, sinh năm: 1986.
Cư trú: Số 6300, ấp H, xã Đ, huyện A, tỉnh An Giang.
Bị đơn: Ông Nguyễn Chí L, sinh năm: 1984.
Cư trú: Số 6188, ấp H, xã Đ, huyện A, tỉnh An Giang.
(Bà N vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, ông L vắng mặt)
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện, bản tự khai cùng ngày 09/12/2020 cùng với các tài liệu, chứng cứ kèm theo và quá trình tố tụng tại Tòa án, bà Ngô Thị Kim N trình bày: Hôn nhân của bà với ông Nguyễn Chí L do tự tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn theo Giấy chứng nhận kết hôn số: 98/HT, quyển số 01/2010 ngày 27/8/2010 của Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện A, tỉnh An Giang. Sau khi kết hôn bà và ông L lên thành phố Hồ Chí Minh làm thuê và chung sống hạnh phúc đến năm 2013 thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do vợ chồng bất đồng quan điểm, cuộc sống không hợp nên thường xuyên cự cải, ông L không quan tâm đến bà và con chung nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng. Từ đó, tình cảm giữa bà và ông L không còn nên sống ly thân từ năm 2013 cho đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn nên bà yêu cầu xin ly hôn với ông L.
Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Ngô Kỳ A, sinh ngày 28/9/2013 đang sống chung với bà N. Khi ly hôn, bà N yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu A, không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản chung, về nợ chung: Không có, không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tòa án tiến hành kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ để các bên tiếp cận, bà N thống nhất với những tài liệu, chứng cứ mà mình cung cấp, không bổ sung thêm.
Để đảm bảo quyền lợi của ông L Tòa án tiến hành ghi lời khai của ông nhưng khi đến nhà thì ông L đi vắng nên không tiến hành ghi lời khai ông được.
Để xác định nguyên nhân của việc phát sinh tranh chấp, Tòa án đã thực hiện thủ tục thu thập chứng cứ là xác minh tình trạng mâu thuẫn cụ thể:
Tại biên bản ghi lời khai ngày 05/01/2021 bà Đặng Thị Huỳnh H cho biết: Hôn nhân giữa N và L là do tự tìm hiểu, có tổ chức lễ cưới và đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật. Sau khi kết hôn, cả hai lên thành phố Hồ Chí Minh làm thuê, sau một thời gian N về nhà sinh cháu Kỳ A được một năm thì phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân chủ yếu là bất đồng ý kiến, cuộc sống không hợp và hai bên đã không còn chung sống vào năm 2014 đến nay. Khi không còn chung sống ông L có về thăm con được vài lần và khoảng 3 năm nay không thăm cháu nữa, theo bà giữa N và L không thể hàn gắn lại được.
Tại biên bản xác minh ngày 29/01/2021, được bà Võ Thị T cho biết: Bà N và ông L chung hạnh phúc đến năm 2013 thì bà N tự ý bỏ nhà đi cho tới nay không rõ nguyên nhân, bà nhiều lần khuyên ngăn nhưng bà N không đồng ý. Bà N và ông L có 01 con chung tên Nguyễn Ngô Kỳ A như N trình bày, cháu đang sống với bà N. Tài sản chung và nợ bà không biết. Hiện tại ông L vẫn còn đăng ký hộ khẩu thường trú tại xã Đ do bà làm chủ hộ.
Tại biên bản xác minh ngày 29/01/2021 được ban ấp H, xã Đ cho biết hiện ông L vẫn còn đăng ký hộ khẩu thường trú tại ấp H, xã Đ, huyện A, tỉnh An Giang do bà T làm chủ hộ.
Tại biên bản ghi lời khai ngày 05/01/2021, được cháu Nguyễn Ngô Kỳ A cho biết: Hiện cháu đang sống với bà N, cuộc sống của cháu rất tốt và được ăn học đầy đủ như bao đứa trẻ khác. Nếu cha mẹ cháu ly hôn, cháu xin được tiếp tục sống chung với mẹ.
Bà N vẫn bảo lưu ý kiến và có đơn xin xét xử vắng mặt. Riêng ông L đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt nên Hội đồng xét xử, xét xử vắng mặt ông L theo thủ tục chung.
Quan điểm đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện A:
Về thủ tục tố tụng: Tòa án thụ lý, xác định quan hệ tranh chấp, xác định tư cách đương sự, thu thập chứng cứ đảm bảo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; thành phần Hội đồng xét xử không thuộc trường hợp phải thay đổi; thủ tục xét xử vắng mặt được đảm bảo.
Về hôn nhân: Căn cứ vào các chứng cứ trong hồ sợ vụ án cho thấy hôn nhân của bà N và ông L có mâu thuẫn trầm trọng, thời gian ly thân đã lâu nhưng hai bên không có thiện chí hàn gắn, mục đích hôn nhân không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà N theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình.
Về con chung: Có 01 con chung tên Nguyễn Ngô Kỳ A, sinh ngày 28/9/2013 đang sống chung với bà N. Để đảm bảo điều kiện cho con chung phát triển và ổn định về tâm sinh lý của cháu sau này được tốt nên đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà N, giao cháu Kỳ A cho bà N được tiếp tục nuôi dạy.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Theo quy định của pháp luật, bên không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, do bà N không yêu cầu nên đề nghị Hội đồng xét xử công nhận sự tự nguyện của bà N.
Về quan hệ tài sản chung, nợ chung: Do bà N khai không có nên đề nghị Hội đồng xét xử không xem xét giải quyết.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ vụ án, kết quả thẩm tra tại phiên tòa và sau khi nghe đương sự trình bày tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về tố tụng: Bà Ngô Thị Kim N khởi kiện yêu cầu ly hôn với ông Nguyễn Chí L. Ông L có nơi cư trú trên địa bàn huyện A. Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự, đây là tranh chấp về hôn nhân và gia đình, ly hôn nên thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện A.
Về sự vắng mặt của đương sự: Bà N vắng mặt nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt, ông L được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai để tham gia phiên tòa nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà N, ông L theo Điều 227, Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự.
[2] Về quan hệ hôn nhân: Hôn nhân giữa bà N và ông L có đăng ký kết hôn theo quy định nên làm phát sinh giá trị pháp lý theo Điều 9 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.
Xét yêu cầu của bà N ly hôn với ông L: Trong đời sống hôn nhân thường hay phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân chủ yếu là do vợ chồng bất đồng quan điểm sống, thường xuyên cự cải, không hòa hợp tính tình nên mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng và sống ly thân từ năm 2013 cho đến nay. Đều này phù hợp với lời khai của bà T, bà H là mẹ của ông L, bà N.
Qua hòa giải, bà N vẫn kiên quyết xin ly hôn với ông L, còn ông L đã được tống đạt hợp lệ thông báo hòa giải những vẫn không đến tham gia hòa giải. Cho thấy, mục đích hôn nhân giữa bà N và ông L không đạt được, đời sống chung không thể kéo dài, mâu thuẫn vợ chồng đã thật sự trầm trọng nên yêu cầu ly hôn của bà N là có căn cứ chấp nhận theo quy định tại Điều 56 của Luật hôn nhân và gia đình.
[3] Về con chung: Hiện nay cháu Nguyễn Ngô Kỳ A, sinh ngày: 28/9/2013 đang sống chung với bà N. Bà N yêu cầu được tiếp tục nuôi cháu A và tại biên bản lời khai cháu A cũng có nguyện vọng được sống chung với bà N. Để đảm bảo điều kiện cho con chung phát triển và ổn định về tâm sinh lý của cháu sau này được tốt nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của bà N, giao cháu A cho bà N được tiếp tục nuôi dạy.
Về nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung: Theo quy định của pháp luật, bên không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con. Tuy nhiên, bà N không yêu cầu nên Hội đồng xét xử nghĩ nên công nhận.
Hội đồng xét xử cũng giải thích cho các đương sự biết:
Bà N cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông L trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định. Hạn chế quyền của của cha mẹ đối với con chưa thành niên.
[4] Về tài sản chung, nợ chung: Bà N khai không có nên Hội đồng xét xử không xem xét.
[5] Về án phí: Bà N phải chịu án phí hôn nhân sơ thẩm. Vì các lẽ trên:
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ:
Các Điều 9, Điều 51, Điều 53, Điều 56, Điều 81, Điều 82, Điều 83, Điều 84 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;
Các Điều 147, Điều 227, Điều 228, Điều 238, Điều 273 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
Điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết: 326/2016/UBTVQH14 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 hướng dẫn về án phí, lệ phí Tòa án.
Xư: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Ngô Thị Kim N.
Về quan hệ hôn nhân: Bà Ngô Thị Kim N được ly hôn với ông Nguyễn Chí L.
Giấy chứng nhận kết hôn số: 98/HT, quyển số 01/2010 ngày 27/8/2010 của Ủy ban nhân dân xã Đ, huyện A, tỉnh An Giang không còn giá trị pháp lý khi bản án có hiệu lực pháp luật.
Về con chung: Bà N được tiếp tục nuôi cháu Nguyễn Ngô Kỳ A, sinh ngày 28/9/2013.
Công nhận sự tự nguyện của bà N về việc không yêu cầu ông L cấp dưỡng nuôi con chung.
Bà N cùng các thành viên gia đình (nếu có) không được cản trở ông L trong việc thăm nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con.
Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của người thân thích của con, cơ quan có thẩm quyền, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con chung dựa trên các căn cứ do pháp luật quy định. Hạn chế quyền của của cha mẹ đối với con chưa thành niên.
Về án phí: Bà Ngô Thị Kim N phải chịu 300.000 (Ba trăm nghìn) đồng án phí hôn nhân sơ thẩm, được khấu trừ vào tiền tạm ứng án phí mà bà đã nộp theo biên lai thu số 0006843 ngày 15/12/2020 tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện A.
Các đương sự được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết tại nơi cư trú.
(Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự).
Bản án 63/2021/HNGĐ-ST ngày 16/03/2021 về tranh chấp hôn nhân và gia đình, ly hôn
Số hiệu: | 63/2021/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện An Phú - An Giang |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 16/03/2021 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về