TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN PHÚ TÂN, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 114/2018/HNGĐ-ST NGÀY 27/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 27 tháng 11 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 307/2018/TLST-HNGĐ ngày 29 tháng 10 năm 2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 193/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 11 năm 2018, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Lê Thị T, sinh năm 1986 (Có mặt).
Địa chỉ: Ấp T, xã N, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn L, sinh năm 1985 (Vắng mặt).
Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: Ấp S, xã N, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
Chỗ ở hiện nay: Ấp Q, xã T, huyện Phú Tân, tỉnh Cà Mau.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo đơn khởi kiện ngày 15 tháng 8 năm 2018 và tại phiên tòa, chị Lê Thị T trình bày: Vào năm 2007 chị và anh Nguyễn Văn L chung sống như vợ chồng, đến nay chưa đăng ký kết hôn. Trong quá trình chung sống, giữa vợ chồng xảy ra nhiều mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, không hòa hợp và thường xuyên tranh cải với nhau. Từ đó, giữa vợ chồng không còn tình cảm dành cho nhau và không còn sống chung từ năm 2017 cho đến nay. Xét thấy, hôn nhân không còn hạnh phúc nên chị yêu cầu được ly hôn với anh Nguyễn Văn L. Về con chung, có hai người tên là Nguyễn Quỳnh N (giới tính nữ), sinh ngày 19 tháng 12 năm 2007 và Nguyễn Quốc K (giới tính nam), sinh ngày 27 tháng 6 năm 2011, hiện do chị trực tiếp nuôi dưỡng. Chị yêu cầu được tiếp tục nuôi cả hai người con và không yêu cầu anh Nguyễn Văn L cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung và nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Tại bản tự khai ngày 29 tháng 10 năm 2018, bị đơn anh Nguyễn Văn L trình bày: Về thời gian chung sống như vợ chồng, không có đăng ký kết hôn, mâu thuẫn xảy ra, nguyên nhân mâu thuẫn, thời gian không còn sống chung đúng như chị Lê Thị T đã khai. Nay cuộc sống hôn nhân không còn hạnh phúc nên anh đồng ý ly hôn với chị Lê Thị T. Con chung, đúng như chị Lê Thị T đã trình bày, anh chấp nhận giao con chung cho chị Lê Thị T tiếp tục nuôi dưỡng, anh không cấp dưỡng nuôi con. Tài sản chung và nợ chung không có nên không yêu cầu Tòa án giải quyết.
Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát: Về tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự được thực hiện đúng quy định của pháp luật. Về nội dung đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều 9, 14, 53, 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình, không công nhận chị Lê Thị T và anh Nguyễn Văn L là vợ chồng. Công nhận sự thỏa thuận của các đương sự về nuôi con chung. Về án phí buộc chị Lê Thị T phải chịu theo quy định chung.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về tố tụng: Việc chị Lê Thị T xin ly hôn anh Nguyễn Văn L là thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định tại khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự. Đồng thời, anh Nguyễn Văn L có đơn đề nghị xét xử vắng mặt, nên căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt anh Nguyễn Văn L là có căn cứ.
[2] Xét về hôn nhân, chị Lê Thị T và anh Nguyễn Văn L sống chung với nhau như vợ chồng từ năm 2007 đến nay vẫn chưa đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, nên hôn nhân giữa chị Lê Thị T và anh Nguyễn Văn L vi phạm quy định về đăng ký kết hôn. Do đó, căn cứ vào quy định tại các điều 9, 14, 53 của Luật hôn nhân và gia đình thì hôn nhân giữa chị Lê Thị T và anh Nguyễn Văn L không được công nhận là hôn nhân hợp pháp. Chị Lê Thị T và anh Nguyễn Văn L không được công nhận là vợ chồng.
[3] Về con chung có hai người tên là Nguyễn Quỳnh N và Nguyễn Quốc K, chị Lê Thị T và anh Nguyễn Văn L thống nhất thỏa thuận giao cho chị Lê Thị T tiếp tục nuôi và anh Nguyễn Văn L không cấp dưỡng nuôi con. Sự thỏa thuận về người nuôi con và không cấp dưỡng nuôi con giữa chị Lê Thị T và anh Nguyễn Văn L là hoàn toàn tự nguyện, phù hợp với nguyện vọng của con chưa thành niên, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội và đúng theo quy định tại các điều 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình. Từ đó, công nhận sự thỏa thuận về người nuôi con và không cấp dưỡng nuôi con giữa chị Lê Thị T và anh Nguyễn Văn L là có căn cứ.
[4] Chị Lê Thị T và anh Nguyễn Văn L xác định tài sản chung và nợ chung không có nên không đặt ra xem xét.
[5] Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, chị Lê Thị T chịu theo quy định tại điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35 của Bộ luật tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án.
Áp dụng các điều 9, 14, 53, 81, 82 và 83 của Luật hôn nhân và gia đình.
1. Tuyên bố: Không công nhận chị Lê Thị T và anh Nguyễn Văn L là vợ chồng.
2. Về con chung, công nhận sự thỏa thuận của các đương sự như sau:
Chị Lê Thị T chịu trách nhiệm trực tiếp nuôi dưỡng hai người con chung tên là Nguyễn Quỳnh N (giới tính nữ), sinh ngày 19 tháng 12 năm 2007 và Nguyễn Quốc K (giới tính nam), sinh ngày 27 tháng 6 năm 2011. Ghi nhận sự tự nguyện của chị Lê Thị T không yêu cầu anh Nguyễn Văn L cấp dưỡng nuôi con.
Anh Nguyễn Văn L có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở.
3. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm, chị Lê Thị T phải chịu 300.000 đồng, nhưng được khấu trừ số tiền tạm ứng án phí là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0007340, ngày 29 tháng 10 năm 2018 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Phú Tân, chị Lê Thị T đã nộp đủ án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu yêu cầu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.
Chị Lê Thị T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Anh Nguyễn Văn L có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 114/2018/HNGĐ-ST ngày 27/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 114/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Phú Tân - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 27/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về