Bản án 63/2020/HS-ST ngày 18/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ ĐÔNG TRIỀU – TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 63/2020/HS-ST NGÀY 18/08/2020 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 18 tháng 8 năm 2020, tại Phòng xử án, Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 51/2020/TLST-HS ngày 03 tháng 7 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 59/2020/QĐXX- ST ngày 31 tháng 7 năm 2020 của Tòa án nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh đối với bị cáo:

Họ và tên: Phạm Văn C; Tên gọi khác: Không; Giới tính: Nam. Sinh ngày: 01/9/1991, tại huyện K, thành phố Hải Phòng. Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú/cư trú hiện nay: Thôn 2, xã Đ, huyện K, thành Phố Hải Phòng. Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không. Trình độ học vấn: Lớp 9/12; Nghề nghiệp: Lao động tự do. Họ và tên cha: Phạm Văn T; Sinh năm 1968. Họ và tên mẹ: Bùi Thị H; Sinh năm: 1972. Vợ, con: Chưa có. Tiền án: 02 tiền án: + Năm 2013, bị Tòa án nhân dân huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên xử phạt 01 năm 09 tháng tù về tội “trộm cắp tài sản”; Chấp hành xong hình phạt ngày 18/10/2014 (chưa bồi thường dân sự cho bị hại); + Năm 2018, bị Tòa án nhân dân thành phố Thanh Hóa xử phạt 18 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, ngày 23/10/2019 chấp hành xong hình phạt tù. Tiền sự: Không. Nhân thân: Ngày 12/3/2020, bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long khởi tố bị can, tạm giam về tội “Trộm cắp tài sản”. Bị can hiện đang tạm giam tại Trại tạm giam Công an tỉnh Vĩnh Long. Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

* Người bị hại:

1/ Ngô Thành C, sinh năm 1974; Địa chỉ: thôn S, xã Y, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

2/ Phạm Quang K, sinh năm 1983; Địa chỉ: thôn S, xã Y, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

3/ Nguyễn Trọng T, sinh năm 1976; Địa chỉ: thôn S, xã Y, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

4/ Hoàng Nghĩa H, sinh năm 1971; Địa chỉ: thôn S, xã Y, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh; Có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

* Người làm chứng:

1/ Hoàng Văn T. Vắng mặt.

2/ Vũ Thành H. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ ngày 15/02/2020, Phạm Văn C điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Airblade không rõ biển kiểm soát đến khu vực chùa C thuộc thôn S, xã Y, thị xã Đ mục đích trộm cắp tài sản. Khi đến gần chùa, C đi vào cây xăng thay quần áo nhà sư rồi điều khiển xe mô tô đi vào sân chùa; thấy các sư thầy của nhà chùa đang tụng kinh trên chính điện, C đi xuống dãy phòng nghỉ của các sư thầy lục tìm để trộm cắp tài sản. Khi vào khu nhà tổ phòng của sư thầy Hoàng Nghĩa H thấy trên ghế tựa có một ba lô, C lục tìm và lấy trong ba lô này 3.000.000đ (ba triệu đồng) giấu vào túi vải đeo trên người, tiếp đó Cường vào phòng nghỉ chung của các sư thầy Phạm Quang K và sư thầy Ngô Thành C lấy 10.000.000đ (mười triệu đồng) trong cặp sách màu đen (của các sư thầy Phạm Quang K và Ngô Thành C), rồi vào phòng nghỉ của sư thầy Nguyễn Trọng T lấy trong túi vải màu vàng để trên bàn làm việc số tiền 12.783.000đ (mười hai triệu bảy trăm tám mươi ba nghìn đồng) cho vào túi vải đeo trên người. Sau đó Cường ra sân lấy xe mô tô điều khiển đến thành phố Hải Dương thuê phòng nghỉ. Tại đây Cường bỏ số tiền vừa trộm cắp ra đếm được 25.783.000đ (hai mươi năm triệu bảy trăm tám ba nghìn đồng).

Sau khi sử dụng hết số tiền trên, C đến thành phố Hải Phòng bán chiếc xe mô tô nhãn hiệu Air Blade cho một cửa hàng sửa chữa xe mô tô (không rõ địa chỉ) rồi đến huyện T, tỉnh Vĩnh Long lẩn trốn. Ngày 09/3/2020, C trộm cắp tài sản tại tịnh xá N thuộc xã M, huyện T, tỉnh Vĩnh Long thì bị Công an huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long bắt quả tang.

Tại bản Cáo trạng số 58/CT-VKS-ĐT ngày 23 tháng 6 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh đã truy tố bị cáo Phạm Văn C về tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo về tội danh, điều luật như nội dung bản Cáo trạng; đề nghị Hội đồng xét xử:

- Tuyên bố bị cáo Phạm Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”:

- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo Phạm Văn C từ 30 tháng đến 36 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”, thời hạn tù tính từ ngày đi thi hành án.

Áp dụng khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự và các Điều 584, 585, 586, 589 Bộ luật dân sự: Buộc bị cáo Phạm Văn C phải bồi thường thiệt hại cho sư thầy Ngô Thành C 3.000.000 đồng; bồi thường cho sư thầy Nguyễn Trọng T 12.783.000 đồng.

Tại phiên tòa, bị cáo có đơn đề nghị xử vắng mặt vì lý do sức khỏe, không tham dự được phiên tòa.

Trong đơn đề nghị xét xử vắng mặt của những người bị hại thể hiện: trong quá trình chuẩn bị xét xử, các ông Hoàng Nghĩa H và ông Phạm Quang K đã được gia đình bị cáo bồi thường toàn bộ số tiền bị cáo đã chiếm đoạt. Riêng các ông Phạm Văn C và Ngô Thành C chưa được bồi thường nên có ý kiến đề nghị bị cáo phải tiếp tục bồi thường. Tất cả những người bị hại đều có ý kiến đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thị xã Đông Triều và Điều tra viên; của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều và Kiểm sát viên trong quá trình điều tra đều hợp pháp và đúng trình tự tố tụng.

[2] Quá trình điều tra, bị cáo Phạm Văn C đã khai nhận hành vi như nội dung cáo trạng đã truy tố. Kết hợp với lời khai của những người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, người làm chứng... và các chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như: Sơ đồ, bản ảnh hiện trường; biên bản định giá tài sản, kết luận giám định... Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Khoảng 20 giờ ngày 15/02/2020, tại khu phòng nghỉ của các sư thầy Chùa C thuộc thôn S, xã Y, thị xã Đ, tỉnh Quảng Ninh, lợi dụng sơ hở Phạm Văn C đã có hành vi trộm cắp 3.000.000đ (ba triệu đồng ) của sư thầy Hoàng Nghĩa H, 7.000.000đ (bảy triệu đồng) của sư thầy Phạm Quang K 3.000.000đ (ba triệu đồng) của sư thầy Ngô Thành C và 12.783.000đ (mười hai triệu bảy trăm tám mươi ba nghìn đồng) của sư thầy Nguyễn Trọng T; Tổng số tiền C trộm cắp là 25.783.000đ (hai mươi năm triệu bảy trăm tám ba nghìn đồng).

[3] Hành vi nêu trên của bị cáo Phạm Văn C đã xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản hợp pháp của người khác được Nhà nước và pháp luật bảo vệ, gây mất trật tự trị an trên địa bàn. Bị cáo là người đã thành niên, có đủ khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình. Do tham lam, lười lao động, muốn có tiền chi tiêu cá nhân mà không phải mất công sức lao động, bị cáo lén lút vào các phòng nghỉ của nhà Chùa lục soát trộm cắp tài sản lén lút chiếm đoạt tài sản của các Sư thầy với tổng số tiền 25.783.000 đ. Bản thân bị cáo năm 2013 và 2018 đã hai lần bị Tòa án xét xử về tội “Trộm cắp tài sản”, chưa được xóa án tích nay lại tiếp tục phạm tội. Hành vi của bÞ c¸o đã cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo điểm g khoản 2 Điều 173 BLHS. Hành vi đó cần phải được xử lý nghiêm, việc đưa ra xét xử công khai là cần thiết.

[4] Điều 173 Bộ luật hình sự quy định:

1. Người nào trộm cắp tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm….”.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:… g) Tái phạm nguy hiểm.” [5] Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Đông Triều và quan điểm của kiểm sát viên thực hành quyền công tố nhà nước tại phiên tòa truy tố bị cáo ra xét xử trước Tòa án theo tội danh và điều luật đã viện dẫn là hoàn toàn có cơ sở pháp luật, đúng người, đúng tội, không oan, cần chấp nhận. Việc đưa bị cáo ra xét xử công khai và áp dụng một mức hình phạt tương xứng với hành vi bị cáo đã gây ra là cần thiết.

[6] Xét tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Quá trình điều tra bị cáo khai báo thành khẩn, ăn năn hối cải, nên xem xét cho bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51; Đại diện những người bị hại là sư thầy Hoàng Nghĩa H có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo. Ngoài ra, trước khi xét xử gia đình bị cáo đã bồi thường cho sư thầy Hoàng Nghĩa H 3.000.000 đồng; bồi thường cho sư thầy Phạm Quang K là 7.000.000 đồng, nên bị cáo được hưởng thêm tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự. Tuy nhiên, xét tính chất hành vi phạm tội của bị cáo, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết phải áp dụng một mức hình phạt nghiêm khắc; cách ly bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới đảm bảo ý nghĩa giáo dục riêng, phòng ngừa chung.

[7] Về hình phạt bổ sung: bị cáo không có nghề nghiệp ổn định nên miễn áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[8] Về trách nhiệm dân sự: Những người bị hại là sư thầy Ngô Thành C và Nguyễn Trọng T yêu cầu bị cáo bồi thường số tiền đã bị trộm cắp, nên cần buộc bị cáo phải bồi thường theo quy định pháp luật.

[9] Về vật chứng vụ án: Chiếc xe mô tô nhãn hiệu Air Blade, Phạm Văn C dùng làm phương tiện phạm tội theo C khai đã bán cho một cửa hàng sửa chữa xe máy tại Hải Phòng, đến nay chưa xác định được biển kiểm soát xe và người đã mua chiếc xe nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Đông Triều tiếp tục xác minh làm rõ, xử lý sau.

10] Về án phí: Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng: điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự.

Tuyên bố: Bị cáo Phạm văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Xử phạt bị cáo Phạm Văn C 36 (ba mươi sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày thi hành án.

Áp dụng: khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự; Điều 584, Điều 589 Bộ luật dân sự.

Buộc bị cáo Phạm Văn C phải hoàn trả cho Sư thầy Ngô Thành C số tiền 3.000.000 đ (ba triệu đồng); Sư thầy Nguyễn Trọng T số tiền 12.783.000 đ (mười hai triệu bảy trăm tám mươi ba nghìn đồng).

Áp dụng: Khoản 2 Điều 136; Điều 331 và Điều 333 của Bộ luật tố tụng hình sự; khoản 3 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14.

Buộc bị cáo phải chịu 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm và 789.000 đ (bảy trăm tám mươi chín nghìn đồng) án phí dân sự.

Án xử sơ thẩm công khai vắng mặt bị cáo và những người bị hại. Báo cho bị cáo và những người bị hại biết có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.

Kể từ khi án có hiệu lực pháp luật và người được thi hành án có đơn yêu cầu thi hành án mà người phải thi hành án không chấp hành án hoặc chấp hành không đầy đủ thì phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án cho đến khi thi hành án xong, theo mức lãi suất quy định tại Điều 357; Điều 468 Bộ luật dân sự.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án dân sự được thực hiện theo quy định tại Điều 30 – Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

213
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2020/HS-ST ngày 18/08/2020 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:63/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Đông Triều - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 18/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về