Bản án 63/2019/HS-ST ngày 29/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HÀ TRUNG, TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 63/2019/HS-ST NGÀY 29/08/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 8 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 61/2019/TLST-HS ngày 26 tháng 7 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 66/2019/QĐXXST-HS ngày 13 tháng 8 năm 2019 đối với bị cáo:

Trần Tuấn Tr, sinh ngày 03 tháng 11 năm 2001; Tại: xã H, thị xã B, tỉnh Thanh Hóa; Nơi cư trú: Thôn Đ, xã H, thị xã B, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ văn hóa: 10/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Văn Tr và bà Vũ Thị Ch; chưa có vợ; Tiền sự: Không; Tiền án: Không. Bị bắt tạm giữ từ ngày 23/5/2019 đến ngày 01/6/2019 chuyển tạm giam cho đến nay; Có mặt.

- Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Trần Tuấn Tr: Ông Trần Văn Tr - Sinh năm 1961, địa chỉ: Thôn Đ, xã H, thị xã B, tỉnh Thanh Hóa - Là bố đẻ của Tr; Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo: Ông Lê Bá M, là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Thanh Hóa bào chữa cho Trần Tuấn Tr; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 11 giờ 15 phút ngày 23/5/2019 tổ công tác Công an huyện Hà Trung phối hợp với Công an thị trấn Hà Trung làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực tiểu khu 3, thị trấn Hà Trung, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa phát hiện Trần Tuấn Tr đang ngồi trong quán nước mía gần ga Lèn có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra, Công an thu giữ trong túi quần bên phải Trần Tuấn Tr đang mặc 02 (hai) điện thoại di động đã qua sử dụng (01 điện thoại di động 0PP0 A37F và 01 điện thoại di động BAVAPEN B35), 8.000đồng trong đó gồm 1 tờ tiền mệnh giá: 5.000đồng, 1 tờ tiền mệnh giá: 2.000đồng và 1 tờ tiền mệnh giá: 1.000đồng. Thu giữ trong túi quần bên trái Tr đang mặc 01 (một) gói nhỏ bên ngoài bọc bằng nilong màu xanh, bên trong là lớp giấy trắng có chứa chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn nghi là ma túy (heroin). Tại chỗ Tr khai gói nhỏ màu xanh Công an thu giữ không phải là của Tr. Công an đã tiến hành niêm phong gói nhỏ màu xanh nghi là ma túy và đưa Trần Tuấn Tr về Công an huyện Hà Trung lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. (BL 01-02; 29-31; 34-36; 79-92).

Vật chứng thu giữ: 01(một) gói nilong màu xanh, bên trong là lớp giấy trắng có chứa chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn nghi là ma túy (heroine); 02 (hai) điện thoại di động đã qua sử dụng (01 điện thoại di động 0PP0 A37F; 01 điện thoại di động BAVAPEN B35); 8.000đồng trong đó gồm 1 tờ tiền mệnh giá: 5.000đồng, 1 tờ tiền mệnh giá: 2.000đồng và 1 tờ tiền mệnh giá: 1.000đồng; 01(một) dây kim loại màu bạc đã qua sử dụng; 01(một) nhẫn kim loại màu bạc mà Tr đang đeo trên người; 01 (một) xe máy nhãn hiệu Wave màu trắng biển kiểm soát 36B7-053.06. (BL 38, 50).

Tại bản kết luận giám định số: 1284/PC09 ngày 27/5/2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hoá kết luận: Chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn của phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy có trọng lượng (khối lượng) là: 0,301gam loại Heroine.

Tại bản cáo trạng số 65/CT-VKS-HT ngày 25/7/2019, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá đã truy tố Trần Tuấn Tr về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; 91; khoản 1 Điều 101 Bộ luật hình sự. Đề nghị xử phạt Trần Tuấn Tr từ 12 tháng đến 15 tháng tù; Đề nghị áp dụng Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu tiêu hủy toàn bộ chất ma túy là Heroine là mẫu vật còn lại sau giám định và không áp dụng hình phạt bổ sung là tiền đối với bị cáo.

Ý kiến của người bào chữa: Đồng ý với bản luận tội của Viện kiểm sát; Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo với mức án thấp nhất.

Ý kiến của người đại diện hợp pháp: Thống nhất với bản luận tội, Tr đã phạm tội, đề nghị xem xét giảm nhẹ hình phạt cho cháu.

Lời nói sau cùng bị cáo biết hành vi của mình là vi phạm pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt để sớm được trở về với gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hà Trung, Điều tra viên; Viện Kiểm sát nhân dân huyện Hà Trung, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2]. Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo Trần Tuấn Tr đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình đúng như Cáo trạng Viện kiểm sát truy tố. Đối chiếu lời khai của bị cáo với lời khai của người làm chứng, kết quả giám định và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án là hoàn toàn phù hợp; Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận:

Hồi 11 giờ 15 phút ngày 23/5/2019 tổ công tác Công an huyện Hà Trung phối hợp với Công an thị trấn Hà Trung làm nhiệm vụ tuần tra tại khu vực tiểu khu 3, thị trấn Hà Trung, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa phát hiện Trần Tuấn Tr đang ngồi trong quán nước mía gần ga Lèn có biểu hiện nghi vấn nên đã tiến hành kiểm tra, Công an thu giữ trong túi quần bên phải Trần Tuấn Tr đang mặc 02 (hai) điện thoại di động đã qua sử dụng (01 điện thoại di động 0PP0 A37F và 01 điện thoại di động BAVAPEN B35), 8.000đồng. Thu giữ trong túi quần bên trái Tr đang mặc 01 (một) gói nhỏ bên ngoài bọc bằng nilong màu xanh, bên trong là lớp giấy trắng có chứa chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn nghi là ma túy. Công an đã tiến hành niêm phong gói nhỏ màu xanh nghi là ma túy và đưa Trần Tuấn Tr về Công an huyện Hà Trung lập biên bản bắt người phạm tội quả tang.

Quá trình điều tra Tr đều khai gói ma túy Công an thu giữ trong túi quần đang mặc là có thật nhưng không biết là của ai bỏ vào, thời gian nào, không biết tại sao lại có gói ma túy trong túi quần của bị cáo.

Tuy nhiên, tại phiên tòa Trần Tuấn Tr khai nhận gói ma túy này là do bị cáo thấy ở trên bàn uống nước của quán không biết của ai nên đã lấy bỏ vào túi quần bên trái đang mặc. Công an thu giữ tại túi quần là khách quan, việc giám định chất bột trong gói này là ma túy (heroine) là đúng bị cáo thừa nhận là của bị cáo.

Hội đồng xét xử căn cứ vào biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người làm chứng là anh Lưu Văn Kh; lời khai của anh Hoàng Văn L (người trực tiếp khám túi quần của Tr) đều thể hiện gói ma túy thu giữ là thu trong túi quần bên trái Tr đang mặc 01 gói nhỏ bên ngoài bọc nilon màu xanh, bên trong là lớp giấy, trong cùng là chất bột màu trắng ngà dạng cục vụn. Sau khi thu giữ, tại chỗ đãng bỏ gói nhỏ vào phong bì dán kín niêm phong cùng ký tên (BL 01-02; BL 29-31; BL 34-36).

Khi bắt giữ, Công an đã tiến hành quay video toàn bộ quá trình khám người Trần Tuấn Tr đều thể hiện khách quan, Tr chứng kiến toàn bộ việc khám xét, khi lấy gói ma túy trong quần đang mặc trên người, Tr thấy toàn bộ sự việc là thu gói nhỏ trong túi quần bên trái của mình.

Như vậy, qua khám xét, biên bản bắt người phạm tội quả tang, hình ảnh quay lại quá trình khám xét, lời khai của bị cáo tại phiên tòa và các tài liệu chứng cứ khác, Hội đồng xét xử khẳng định số ma túy Công an thu giữ trên người Tr là ma túy của Trần Tuấn Tr đang cất giữ.

Gói ma túy có trọng lượng (khối lượng) 0,301gam loại Heroine. Như vậy hành vi của bị cáo Trần Tuấn Tr đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

[3]. Về tính chất, mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi tàng trữ phép chất ma tuý của Tr đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội, hành vi đó là rất nghiêm trọng, mang tính nguy hiểm cao cho xã hội. Bị cáo phải biết rằng ma tuý là hiểm hoạ, là nguyên nhân gây ra sự suy thoái về đạo đức và cũng là nguyên nhân phát sinh các loại tội phạm khác, ảnh hưởng lớn đến trật tự trị an xã hội. Căn cứ vào hành vi phạm tội của bị cáo cần phải được xử lý nghiêm khắc để giáo dục bị cáo và nhằm cảnh tỉnh răn đe phòng ngừa những kẻ có ý đồ phạm tội như bị cáo. Nên cần xử cách ly Tr ra khỏi cộng đồng xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục là cần thiết.

Do tại thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội bị cáo chưa đủ 18 tuổi nên cần áp dụng những quy định tại Chương XII của Bộ luật hình sự để xem xét xử phạt bị cáo.

[4]. Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ông nội bị cáo được tặng Huân chương kháng chiến hạng nhì. Nên cần áp dụng điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của BLHS để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo để bị cáo thấy được sự khoan hồng của pháp luật.

[5]. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với Tr.

[6]. Về xử lý vật chứng: Số Heroine (vật chứng còn lại sau giám định) thu được của Tr là vật Nhà nước cấm lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với 02 (hai) điện thoại di động đã qua sử dụng (01 điện thoại di động 0PP0 A37F và 01 điện thoại di động BAVAPEN B35); 8.000đ trong đó gồm 1 tờ tiền mệnh giá: 5.000đ, 1 tờ tiền mệnh giá: 2.000đ và 1 tờ tiền mệnh giá: 1.000đ; 01(một) dây kim loại màu bạc đã qua sử dụng và 01(một) nhẫn kim loại màu bạc mà Tr đeo trên người không liên quan đến vụ án nên Cơ quan cảnh sát điều tra Công an huyện Hà Trung đã tiến hành trả lại cho người đại diện hợp pháp là ông Trần Văn Tráng (bố đẻ của Tr) là chính xác.

Đối với chiếc xe mô tô BKS 36B7-053.06 quá trình điều tra Phạm Tuấn Tr khai là xe của Nguyễn Thị A ở thôn Thượng Qúy, xã Hà Phong, huyện Hà Trung nhờ Tr trông hộ. Qua xác minh chiếc xe không phải là vật chứng của vụ án nào và chủ sở hữu hợp pháp là chị Nguyễn Thị Th (em gái chị A) nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Hà Trung đã trả lại cho chủ sở hữu là chính xác.

[7]. Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Trần Tuấn Tr phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Áp dụng: Điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 90; Điều 91 và khoản 1 Điều 101 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Trần Tuấn Tr: 12 (Mười hai) tháng tù. Thời gian chấp hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ: 23/5/2019.

2. Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự;

Tịch thu tiêu huỷ số Heroin còn lại sau giám định có trong bì niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa.

(Hiện đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án huyện Hà Trung theo biên bản giao nhận ngày 23/8/2019).

3. Về án phí: Áp dụng: Khoản 2 Điều 136 Bộ Luật tố tụng hình sự; khoản 1 Điều 21, điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị Quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc Hội, buộc bị cáo Trần Tuấn Tr phải chịu 200.000đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Bị cáo, người đại diện hợp pháp, người bào chữa có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2019/HS-ST ngày 29/08/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:63/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hà Trung - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về