Bản án 63/2019/HS-ST ngày 26/12/2019 về tội giết người

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH HÀ GIANG

BẢN ÁN 63/2019/HS-ST NGÀY 26/12/2019 VỀ TỘI GIẾT NGƯỜI

Ngày 26 tháng 12 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 58/2019/TLST-HS ngày 08/10/2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 96/2019/QĐXXST-HS ngày 12/12/2019, đối với bị cáo: Thào Văn H, sinh ngày 30/3/1999 tại xã T, huyện H, tỉnh Hà Giang; nơi cư trú: Thôn C, xã T, huyện H, tỉnh Hà Giang; nghề nghiệp: Làm ruộng; trình độ văn hóa: 09/12; dân tộc: Mông; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Thào Chẩn P, sinh năm 1968 và bà Sùng Thị D, sinh năm 1975; có vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; nhân thân: Không; bị bắt tạm giam ngày 07/3/2019. Có mặt.

- Người bào chữa cho bị cáo Thào Văn H: Bà Nguyễn Thị H - Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước tỉnh Hà Giang. Có mặt.

- Bị hại: Ông Thào Chẩn P, sinh năm 1968; nơi cư trú: Thôn C, xã T, huyện H, tỉnh Hà Giang. Có mặt.

- Người phiên dịch tiếng Mông: Ông Giàng Cồ S, sinh năm 1962; nơi cư trú: Phường M, thành phố H, tỉnh Hà Giang.

- Người làm chứng: Chị Sùng Thị D, anh Thào Văn P và anh Vàng Páng M. Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 22 giờ 30 phút ngày 31/01/2019, Thào Văn H và anh Vàng Páng M (là anh rể của H) đi chơi về đến nhà ở thôn C, xã T, huyện H, tỉnh Hà Giang thì gặp bố của H là ông Thào Chẩn P đang ngồi hút thuốc lào ở gian bếp. Khi thấy H đi chơi về ông P hỏi H cuốn sổ hộ khẩu của gia đình mà H đã đem đi cầm cố thì hai bên xảy ra cãi nhau, H đi đến chạn để bát dùng tay phải cầm lấy con dao nhọn (loại dao gọt hoa quả) dài 20,4cm và ném thẳng về phía ông P đang ngồi nhưng anh M đứng cạnh gạt tay H nên con dao không trúng ông P, H tiếp tục cúi người dùng tay phải cầm lấy đoạn củi đã cháy dở một đầu ở cạnh bếp dài khoảng 01m dơ lên vụt về phía ông P, lúc đó bà Sùng Thị D (là mẹ đẻ của H) đi từ nhà xuống bếp thấy H cầm đoạn củi định đánh ông P thì giằng lấy đoạn củi và vứt ở cạnh bếp, H và ông P lao vào vật nhau nhưng được M và bà D can ngăn, M kéo H lên nhà và ngồi ở giường ngủ của H, lúc này ông P nhìn thấy 01 chiếc xà beng dài 164cm, chu vi rộng 8cm để ở cạnh bếp liền cầm lấy và đi lên nhà, H nhìn thấy ông P cầm chiếc xà beng đi lên nhà, H lao về phía ông P nhưng anh M giữ được, khi đó ông P và H cách nhau 02m ông P cầm chiếc xà beng dơ lên vụt từ phải sang trái, chếch từ trên xuống dưới về phía H nhưng H dùng tay trái đỡ được, ông P tiếp tục vụt lần thứ hai thì trượt qua vai của H, ông P tiếp tục dơ chiếc xà beng lên vụt lần ba thì H cúi người tránh được chiếc xà beng đập trúng đầu anh M, anh M bị đau nên bỏ tay giữ H ra để ôm đầu, H bỏ chạy xuống bếp thì nhìn thấy 01 đoạn gậy gỗ dài 79cm, một đầu bằng, một đầu vát có chu vi là 10cm để ở chân tường nhà, H nhặt lấy đoạn gậy và quay về phía ông P, lúc này ông P đang đỡ M đứng dậy, H cầm đoạn gậy gỗ đánh ông P, ông P cầm chiếc xà beng dơ lên đỡ thì bị trúng vào ngón tay út bên phải sau đó H cầm đoạn gậy ném về phía ông P nhưng ông P đỡ được, và cầm chiếc xà beng đuổi H, H chạy xuống gian bếp và đi ra ngoài đóng cửa lại, ông P dùng chiếc xà beng chọc vào khung cửa để cậy cửa nhưng không mở được nên bỏ lên nhà để đỡ M. Khi ông P đi lên nhà H mở cửa bếp đi vào và nhìn thấy 01 con dao chuôi gỗ dài 36cm, lưỡi dao dài 22cm bản rộng nhất của lưỡi dao là 7,8cm, bản hẹp nhất là 6,2cm (dao dùng để băm rau lợn) để bên phải cửa ra vào bếp, H cúi người cầm dao bằng tay phải đi lên nhà, lúc này ông P đang cúi người để đỡ M đứng dậy thì nhìn thấy H từ dưới bếp đi lên tay phải cầm 01 con dao, ông P đứng thẳng dậy tay phải vẫn cầm chiếc xà beng nhìn về phía H cách khoảng 2m, H cầm dao tay phải dơ lên ném mạnh trúng vào gò má bên trái ông P. Sau đó H bỏ chạy theo đường bếp sang nhà anh Thào Văn P ở cùng thôn, H vào bếp lấy 03 con dao, trong đó: 01 con dao chuôi bằng kim loại (dài 32cm, phần lưỡi dao dài 21cm, bản rộng nhất của lưỡi dao là 7,8cm, bản hẹp nhất là 6,2cm); 01 con dao chuôi bằng gỗ (dài 46cm, lưỡi dao dài 29cm, bản rộng nhất của lưỡi dao là 5,6cm, bản hẹp nhất là 4cm); 01 con dao chuôi bằng cao su (dài 41cm, lưỡi dao dài 28cm, bản rộng nhất của lưỡi dao là 6,6cm, bản hẹp nhất là 4,4cm), sau đó quay về nhà thì nhìn thấy ông P từ trong nhà chạy ra sân một tay ôm mặt và cầm chiếc xà beng chạy về phía chuồng trâu bên trái nhà, H đuổi theo cầm dao tay trái, rồi dùng tay phải ném liên tiếp 03 con dao về phía ông P đang chạy nhưng không trúng, sau đó H đi vào nhà nhặt con dao vừa ném trúng mặt ông P rồi đi ra sân tìm ông P để chém thì gặp bà D, H nói với bà D “đi tìm xem bố đã chết chưa, nếu chưa chết thì chém cho chết”, sau đó được bà D can ngăn, H cầm con dao đi vào nhà để dao ở chân giường rồi ngủ. Sau khi bị thương ông P chạy lên đường liên thôn phía sau nhà trốn, sau đó bà D tìm thấy đưa đi cấp cứu, tại Bệnh viện đa khoa huyện H, tỉnh Hà Giang.

Tại bản Kết luận giám định pháp y thương tích số 15/TgT, ngày 22/02/2019 của Trung tâm pháp y tỉnh Hà Giang kết luận: Tỷ lệ tổn thương cơ thể do thương tích gây nên hiện tại là 20% (hai mươi phần trăm).

Tại bản Cáo trạng số 38/CT-VKS-P2 ngày 04/10/2019 của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang truy tố bị cáo Thào Văn H về tội “Giết người” theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 123 của Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo Thào Văn H thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như bản cáo trạng đã truy tố là đúng, không oan, nguyên nhân xảy ra vụ việc là do bị cáo thường xuyên uống rượu, khi bị bố đẻ là ông Thào Chẩn P nhắc nhở khiến H bực tức, dẫn đến cãi vã, do không làm chủ được bản thân nên đã có hành vi dùng gậy gỗ đánh, dùng dao nhiều lần ném ông P, sau khi ông P bỏ chạy, bị cáo tiếp tục dùng dao tìm ông P để chém với mục đích là để giết ông P. Hậu quả là gây thương tích cho ông P với tổng tỷ lệ thương tật là 20%. Tuy nhiên, bị cáo phạm tội do bột phát, thiếu suy nghĩ nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

Tại phiên tòa, bị hại Thào Chẩn P xác nhận lời khai của H là đúng. Do bị cáo là con trai ruột nên ông P không yêu cầu bị cáo H phải bồi thường và xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang giữ quyền công tố tại phiên toà giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và đề nghị:

Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Thào Văn H phạm tội “Giết người”.

Về hình phạt: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 15, Điều 57 của Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Thào Văn H từ 09 đến 10 năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (ngày 07/3/2019).

Về trách nhiệm dân sự: Bị hại không yêu cầu, nên đề nghị không đề cập xem xét.

Về án phí: Buộc bị cáo Thào Văn H phải chịu 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu, tiêu hủy các vật chứng không có giá trị sử dụng.

Người bào chữa cho bị cáo Thào Văn H tại phiên tòa là bà Nguyễn Thị H có ý kiến: Hành vi phạm tội của bị cáo H là rõ ràng, bị cáo bị truy tố về tội “Giết người” theo điểm đ khoản 1 Điều 123 của Bộ luật hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Tuy nhiên, bị cáo phạm tội lần đầu, là người dân tộc sống ở vùng sâu, vùng xa nhận thức còn hạn chế; thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại có đơn xin giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo; bị cáo phạm tội thuộc trường hợp chưa đạt. Do đó, đề nghị áp dụng các tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm s, khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 15, Điều 57 của Bộ luật Hình sự áp dụng mức hình phạt từ 07 đến 08 năm tù. Đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Bị cáo Thào Văn H nhất trí với lời bào chữa trợ giúp viên pháp lý và không bổ sung thêm. Khi nói lời sau cùng, bị cáo tỏ rõ sự ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

1 Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo, người bào chữa, bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, người bào chữa đã thực hiện là hợp pháp.

2 Đối với hành vi phạm tội của bị cáo: Từ các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ như lời khai của bị cáo Thào Văn H (bút lục từ 131 đến 166), lời khai của bị hại (bút lục số 174 đến 185), lời khai của người làm chứng (bút lục từ 187 đến 202), kết quả thực nghiện điều tra, bản ảnh (bút lục từ 83 đến 102), kết quả nhận dạng (bút lục từ 126 đến 129), kết luận giám định pháp y (bút lục từ 121 đến 122), cùng các tài liệu, chứng cứ đã thu thập có trong hồ sơ vụ án. Đã có đủ cơ sở để khẳng định vào khoảng 22 giờ 30 phút, đêm ngày 31/01/2019 tại nhà ông Thào Chẩn P tại thôn C, xã T, huyện H, tỉnh Hà Giang, giữa ông P và bị cáo Thào Văn H đã xảy ra xô xát, cãi vã do bị cáo thường xuyên uống rượu, trong khi xảy ra xô xát do bực tức, không làm chủ được bản thân nên H đã có hành vi dùng gậy gỗ đánh, dùng dao ném vào mặt ông P, khi ông P bỏ chạy bị cáo tiếp tục dùng 03 con dao ném theo ông P nhưng không trúng, sau đó bị cáo quay lại lấy dao và đi tìm ông P để chém với mục đích là để giết ông P khi được bà D can ngăn bị cáo mới dừng lại. Hậu quả là gây thương tích cho ông P với tổng tỷ lệ thương tật là 20%, việc ông P không chết là nằm ngoài ý muốn chủ quan của bị cáo. Hành vi của bị cáo Thào Văn H đã cấu thành tội “Giết người”, có tình tiết định khung là “Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình” theo điểm đ khoản 1 Điều 123 của Bộ luật Hình sự năm 2015.

Như vậy, việc Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Hà Giang truy tố bị cáo Thào Văn H ra trước Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang để xét xử về tội “Giết người” theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 123 của Bộ Luật Hình sự năm 2015 là đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không oan.

[3] Về tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi phạm tội của bị cáo: Hành vi phạm tội của bị cáo thuộc trường hợp đặc biệt nghiêm trọng với lỗi cố ý trực tiếp, xâm phạm đến quyền bất khả xâm phạm về sức khỏe, tính mạng đã được pháp luật hình sự bảo vệ, làm ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Với tính chất, mức độ, hậu quả do hành vi mà bị cáo đã gây ra cần có mức hình phạt thật sự nghiêm khắc, để đảm bảo tác dụng giáo dục, cải tạo, răn đe người phạm tội và làm gương cho những người khác.

[4] Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự [5] Các tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; bị hại có đơn xin giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho bị cáo, đây là các tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015. Xét về nhân thân: Bị cáo có quá trình nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, chưa có tiền án, tiền sự, là người dân tộc thiểu số, sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn nên cần được xem xét, cân nhắc khi lượng hình.

7 Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp phạm tội chưa đạt nên cần được áp dụng Điều 57 của Bộ luật Hình sự năm 2015 khi lượng hình đối với bị cáo.

8 Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[9] Về trách nhiệm dân sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị hại không có yêu cầu bồi thường về phần dân sự. Do đó, Hội đồng xét xử thấy không cần đề cấp đến để giải quyết.

10 Đối với vật chứng của vụ án là 01 con dao chuôi gỗ (dài 36cm, lưỡi dao dài 22cm, bản rộng nhất của lưỡi dao là 9,4cm, bản hẹp nhất là 8,6cm) đã qua sử dụng; 01 con dao chuôi kim loại (dài 32cm, lưỡi dao dài 21cm, bản rộng nhất của lưỡi dao là 7,8cm, bản hẹp nhất là 6,2cm) đã qua sử dụng; 01 con dao chuôi gỗ (dài 46cm, lưỡi dao dài 29cm, bản rộng nhất của lưỡi dao là 5,6cm, bản hẹp nhất là 4cm) đã qua sử dụng; 01 con dao chuôi cao su (dài 41cm, lưỡi dao dài 28cm, bản rộng nhất của lưỡi dao là 6,6cm, bản hẹp nhất là 4,4cm) đã qua sử dụng; 01 con dao nhọn dài 20,4cm, lưỡi dao dài 10,4cm đã qua sử dụng; 01 xà beng dài 164cm, chu vi rộng 8cm đã qua sử dụng; 01 đoạn gậy gỗ dài 79cm, một đầu bằng, một đầu vát có chu vi là 10cm. Đây là những vật chứng mang dấu vết của tội phạm và không còn giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy.

11 Cần tiếp tục ra quyết định tạm giam đối với bị cáo để đảm bảo thi hành án.

12 Quan điểm của Kiểm sát viên tại phiên tòa là có cơ sở được chấp nhận.

13 Quan điểm của người bào chữa cho bị cáo tại phiên tòa là có cơ sở nên được chấp nhận xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

[14] Về án phí: Tại phiên tòa bị cáo Thào Văn H có đơn xin miễn án phí với lý do bị cáo là người dân tộc thiểu số sống ở vùng kinh tế đặc biệt khó khăn, căn cứ Quyết định số 900/QĐ-TTg ngày 20/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ;

căn cứ vào điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Hội đồng xét xử xét cần xem xét miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh: Tuyên bố bị cáo Thào Văn H phạm tội “Giết người”.

2. Về hình phạt Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 123, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51, Điều 15, Điều 57 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Thào Văn H 08 (tám) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giam (ngày 07/3/2019).

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo H.

Áp dụng Điều 329 của Bộ luật Tố tụng hình sự quyết định tạm giam bị cáo Thào Văn H với thời hạn là 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án.

3. Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự, Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Tịch thu tiêu hủy 01 con dao chuôi gỗ (dài 36cm, lưỡi dao dài 22cm, bản rộng nhất của lưỡi dao là 9,4cm, bản hẹp nhất là 8,6cm) đã qua sử dụng; 01 con dao chuôi kim loại (dài 32cm, lưỡi dao dài 21cm, bản rộng nhất của lưỡi dao là 7,8cm, bản hẹp nhất là 6,2cm) đã qua sử dụng; 01 con dao chuôi gỗ (dài 46cm, lưỡi dao dài 29cm, bản rộng nhất của lưỡi dao là 5,6cm, bản hẹp nhất là 4cm) đã qua sử dụng; 01 con dao chuôi cao su (dài 41cm, lưỡi dao dài 28cm, bản rộng nhất của lưỡi dao là 6,6cm, bản hẹp nhất là 4,4cm) đã qua sử dụng; 01 con dao nhọn dài 20,4cm, lưỡi dao dài 10,4cm đã qua sử dụng; 01 xà beng dài 164cm, chu vi rộng 8cm đã qua sử dụng; 01 đoạn gậy gỗ dài 79cm, một đầu bằng, một đầu vát có chu vi là 10cm.

(tình trạng các vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng ngày 08/10/2019 giữa Công an tỉnh Hà Giang và Cục Thi hành án dân sự tỉnh Hà Giang.)

4. Về án phí: Căn cứ Điều 135, Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự;

điểm đ khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Thào Văn H.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, người bị hại có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

398
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2019/HS-ST ngày 26/12/2019 về tội giết người

Số hiệu:63/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Hà Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/12/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về