Bản án 63/2019/DS-ST ngày 21/11/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỨC LINH - TỈNH BÌNH THUẬN

BẢN ÁN 63/2019/DS-ST NGÀY 21/11/2019 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Trong ngày 21 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Đức Linh, tỉnh Bình Thuận xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý: 239/2019/TLST-DS, ngày 21 tháng 8 năm 2019, về tranh chấp hợp đồng vay tài sản theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 228/2019/QĐXXST-DS, ngày 23 tháng 10 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số 135/2019/QĐST-DS, ngày 06/11/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Ngân hàng C Địa chỉ: Số A, phố B, phường D, quận E, thành phố Hà Nội.

Người đại diện theo pháp luật: Ông Dương Quyết T; Chức vụ: Tổng giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Ông Lê Văn N, sinh năm 1979; Chức vụ: Giám đốc phòng giao dịch ngân hàng C huyện N (Văn bản ủy quyền ngày 19/9/2019).

Người được ủy quyền lại: Ông Nguyễn Đông L, sinh năm 1973; Chức vụ: Phó giám đốc phòng giao dịch ngân hàng C huyện N (Văn bản ủy quyền ngày 25/9/2019)

Địa chỉ: Khu phố G, thị trấn H, huyện N, tỉnh Bình Thuận.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Huy H, sinh năm 1967.

Đa chỉ: Tổ K, thôn F, xã S, huyện N, tỉnh Bình Thuận.

3. Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Bà Đào Thị N, sinh năm 1968.

Địa chỉ: Tổ K, thôn F, xã S, huyện N, tỉnh Bình Thuận.

Ti phiên tòa có mặt ông L; vắng mặt ông H và bà N không có lý do.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 22/7/2019, bản tự khai, biên bản về việc không tiến hành hòa giải được, các tài liệu khác có trong hồ sơ và tại phiên tòa, người được ủy quyền lại của nguyên đơn là ông Nguyễn Đông L trình bày: Vào ngày 29/5/2014, ngân hàng C - Phòng giao dịch ngân hàng C huyện N có cho ông Nguyễn Huy H (Người vay) và bà Đào Thị N (Người thừa kế) vay số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) theo chương trình cho vay hộ cận nghèo theo khế ước số 6600000701509650, lãi suất khi vay là 0,78%/tháng, lãi quá hạn bằng 130% lãi suất vay (1,014%/tháng). Phân kỳ trả nợ 12 tháng một lần, hạn trả nợ cuối cùng vào ngày 17/6/2019. Sau đó, món vay đã được chuyển quá hạn từ ngày 18/6/2019. Tính tới ngày 21/11/2019, số tiền lãi phát sinh là 5.330.560 đồng. Ông H và bà N đã trả được 3.685.091 đồng (Ba triệu sáu trăm tám mươi lăm nghìn không trăm chín mươi mốt đồng) tiền lãi phát sinh cho ngân hàng, hiện còn nợ lại số tiền nợ vay là 10.000.000 đồng và tiền lãi trong hạn, quá hạn còn phải trả là 1.645.169 đồng.

Yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng ông H và bà N phải có nghĩa vụ thanh toán cho ngân hàng C số tiền 11.645.169 đồng. Trong đó, tiền nợ vay là 10.000.000 đồng và tiền lãi là 1.645.169 đồng. Ông Hvà bà N còn phải tiếp tục chịu lãi theo lãi suất nợ quá hạn của khế ước vay tiền số 6600000701509650 ngày 29/5/2014, kể từ ngày 22/11/2019 cho đến khi trả xong tiền nợ vay.

Theo biên bản lấy lời khai ngày 11/9/2019, biên bản không tiến hành hòa giải được, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà Đào Thị N trình bày: Vào ngày 29/5/2014, bà và chồng là ông Nguyễn Huy Hcó vay của ngân hàng C– Phòng giao dịch huyện N số tiền vay là 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng), theo chương trình cho vay hộ cận nghèo, lãi suất khi vay là 0,78%/tháng và lãi quá hạn là 1.014%/tháng. Vợ chồng bà đã trả cho ngân hàng số tiền lãi là 3.685.091 đồng, hiện còn nợ lại tiền nợ vay 10.000.000 đồng và tiền lãi trong hạn, quá hạn tạm tính tới ngày 11/9/2019 là 1.405.189 đồng. Ngân hàng yêu cầu vợ chồng bà phải trả số tiền nợ trên thì vợ chồng bà đồng ý trả. Vợ chồng bà hiện có chung hộ khẩu tại tổ K, thôn F, xã S, huyện N, tỉnh Bình Thuận. Chồng bà cũng đồng ý trả nợ cho ngân hàng C.

Tòa án đã tiến hành hòa giải để các đương sự tự thỏa thuận với nhau về các vấn đề có tranh chấp trong vụ án nhưng bị đơn không tham gia nên không tiến hành hòa giải được.

Ý kiến của kiểm sát viên về việc tuân thủ pháp luật của thẩm phán, Hội đồng xét xử, của các đương sự và phát biểu quan điểm giải quyết vụ án:

- Thẩm phán đã chấp hành đúng pháp luật.

- Hội đồng xét xử đã chấp hành đúng quy định của pháp luật

- Nguyên đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã chấp hành đúng quy định của pháp luật.

- Bị đơn không chấp hành quy định của pháp luật.

- Về nội dung vụ án: Cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Buộc vợ chồng ông Nguyễn Huy Hvà bà Đào Thị N phải có nghĩa vụ liên đới trả cho ngân hàng C số tiền là 11.645.169 đồng. Trong đó, tiền nợ vay là 10.000.000 đồng và tiền lãi là 1.645.169 đồng. Ông H và bà N còn phải tiếp tục chịu lãi theo lãi suất nợ quá hạn của khế ước vay tiền số 6600000701509650 ngày 29/5/2014, kể từ ngày 22/11/2019 cho đến khi trả xong tiền nợ vay.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, ý kiến của nguyên đơn tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thẩm quyền: Tòa án nhân dân huyện Đức Linh đã thụ lý và giải quyết đơn khởi kiện của nguyên đơn là đúng thẩm quyền quy định tại khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai và không có tài liệu, chứng cứ thể hiện sự vắng mặt của bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Hội đồng xét xử quyết định xét xử vắng mặt đối với bị đơn.

[3] Về pháp luật áp dụng: Căn cứ vào điểm b khoản 1 Điều 688 của Bộ Luật dân sự 2015 thì pháp luật áp dụng để giải quyết vụ án là Bộ Luật dân sự 2015 do đây là giao dịch dân sự đang được thực hiện mà có nội dung và hình thức phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự 2015.

[4] Về quan hệ pháp luật tranh chấp: Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn, quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa, xác định quan hệ pháp luật cần giải quyết là tranh chấp hợp đồng vay tài sản quy định tại Điều 463 Bộ Luật dân sự 2015.

[5] Nội dung vụ án:

[a] Về hợp đồng vay tài sản:

Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ do phía nguyên đơn cung cấp, lời khai của nguyên đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, do đó đủ cơ sở để kết luận:

Vào ngày 29/5/2014, ngân hàng C - Phòng giao dịch ngân hàng C huyện N có cho ông Nguyễn Huy H (Người vay) và bà Đào Thị N (Người thừa kế) vay số tiền 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) theo chương trình cho vay hộ cận nghèo theo khế ước số 6600000701509650, lãi suất khi vay là 0,78%/tháng, lãi quá hạn bằng 130% lãi suất vay (1,014%/tháng). Món vay đã được chuyển quá hạn từ ngày 18/6/2019. Tính tới ngày 21/11/2019, số tiền lãi phát sinh là 5.330.260 đồng. Ông H và bà N đã trả được 3.685.091 đồng (Ba triệu sáu trăm tám mươi lăm nghìn không trăm chín mươi mốt đồng) tiền lãi phát sinh, hiện còn nợ lại số tiền nợ vay là 10.000.000 đồng và tiền lãi trong hạn, quá hạn còn phải trả là 1.645.169 đồng.

[b] Về nghĩa vụ trả nợ của bên vay:

Đây là hợp đồng vay tài sản do các bên tự nguyện ký kết, khi ký kết các bên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự nên được pháp luật thừa nhận và bảo vệ. Căn cứ vào Điều 466 của Bộ luật Dân sự 2015 thì bên vay phải trả cho bên cho vay tiền nợ vay và tiền lãi phát sinh. Về lãi suất các bên thỏa thuận là phù hợp với các quy định của pháp luật về lãi suất nên được chấp nhận. Do đó, yêu cầu của nguyên đơn về buộc bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan phải trả số tiền nợ vay 10.000.000 đồng và tiền lãi phát sinh trong hạn, quá hạn 1.645.169 đồng là phù hợp.

[6] Căn cứ Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, kể từ ngày 22/11/2019 cho đến khi thi hành án xong, ông H và bà N còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn của khế ước vay tiền số 6600000701509650 ngày 29/5/2014.

[7] Về án phí: Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, yêu cầu của nguyên đơn được chấp nhận nên bị đơn và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan phải chịu toàn bộ án phí DSST.

[8] Ý kiến của Kiểm sát viên về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của các đương sự trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý đến trước thời điểm Hội đồng xét xử vào nghị án và phát biểu quan điểm về việc giải quyết vụ án là có căn cứ và phù hợp với nội dung vụ án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 3 Điều 26, điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39, khoản 2 Điều 92, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và khoản 3 Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự; Áp dụng Điều 463, Điều 466 và điểm b khoản 1 Điều 688 của Bộ Luật dân sự 2015; Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP ngày 11/01/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án; Điều 26 Luật Thi hành án dân sự năm 2008, tuyên xử:

1/ Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Ông Nguyễn Huy H và bà Đào Thị N phải liên đới trả cho ngân hàng C số tiền 11.645.169 đồng (Mười một triệu sáu trăm bốn mươi lăm ngàn một trăm sáu mươi chín đồng). Trong đó, tiền nợ vay là 10.000.000 đồng và tiền lãi là 1.645.169 đồng.

Kể từ ngày 22/11/2019 cho đến khi thi hành án xong, ông H và bà N còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án theo mức lãi suất nợ quá hạn của khế ước vay tiền số 6600000701509650 ngày 29/5/2014.

2/ Về án phí DSST:

Ông Nguyễn Huy H và bà Đào Thị N phải chịu 582.000 đồng (Năm trăm tám mươi hai ngàn đồng) án phí DSST, nộp tại Chi cục Thi hành án dân sự huyện Đức Linh.

Ngân hàng C không phải chịu tiền án phí DSST.

3/ Về quyền kháng cáo: Báo cho nguyên đơn có mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày tròn, kể từ ngày tuyên án (21/11/2019). Báo cho bị đơn, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa biết có quyền kháng cáo bản án này trong hạn 15 ngày tròn, kể từ ngày nhận được bản án hoặc từ ngày niêm yết bản án để Tòa án cấp trên xét xử phúc thẩm.

4/ Trong trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

261
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2019/DS-ST ngày 21/11/2019 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:63/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Đức Linh - Bình Thuận
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 21/11/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về