Bản án 63/2018/HSST ngày 27/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN SÔNG MÃ, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 63/2018/HSST NGÀY 27/04/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 27 tháng 4 năm 2018 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 63/2018/TLHS - ST ngày 30/3/2018 theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 74/2018/QĐXXST - HS, ngày 12 tháng 4 năm 2018 đối với bị cáo sau đây:

Họ và tên: Và A Th, sinh năm 1994; Nơi cư trú: Bản HP, xã CE, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La; Nghề nghiệp: Trồng trọt; Trình độ văn hóa: 11/12; Dân tộc: Mông; Tôn giáo: Không; Quốc tịch Việt Nam; Chức vụ Đảng phái, Đoàn thể: Không; Con ông Và Ghia N và bà Giàng Thị S; Vợ: Vừ Thị Ch, có 02 con (lớn nhất sinh năm 2014, nhất sinh năm 2015). Tiền án, tiền sự: Không. Bị bắt tạm giữ, tạm giam ngày 26/12/2017 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan: Vừ Thị Ch, sinh năm 1996. Trú tại: Bản HP, xã CE, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên Tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Hồi 16 giờ 30 phút ngày 26/12/2017 tại khu vực bản Lốm Hỏm, xã Mường Lầm, huyện Sông Mã tổ công tác Công an Đồn Mường Lầm, huyện Sông Mã phát hiện Và A Th điều khiển xe máy chở Vừ Thị Ch trên tay cầm 01 gói nilon màu hồng nghi là ma túy ném xuống đất, Tổ công tác yêu cầu Th và Ch nhặt lên kiểm tra thì phát hiện bên trong gói có 37 viên nén màu hồng, Th khai là hồng phiến. Tổ công tác tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Th và Ch. Vật chứng thu gồm: 01 gói nilon màu hồng bên trong có 37 viên nén màu hồng, tạm giữ 01 Chếc xe mô tô BKS 26B2 - 210.41 và 450.000 đồng.

Quá trình điều tra Và A Th khai: Ngày 26/12/2017 Th mang theo 1.500.000đ, mượn xe mô tô BKS 26B2 - 210.41 của anh trai là Và A Đông để đi gửi thiệp mời cưới ở bản Nà Sèo, xã Nậm Ty, huyện Sông Mã, vợ Th là Vừ Thị Ch xin đi cùng đến chợ trung tâm để mua đồ ăn, tuy nhiên Th chở Ch đi thẳng lên bản Nà Sèo, Nậm Ty cùng, đến nơi Ch ở lại nhà của người quen chờ còn bản thân Th một mình đi lên bản Nà Sèo, trên đường đi Th gặp một đám thợ đang dựng nhà, Th đi vào trong lán thì thấy 1 người đàn ông dân tộc mông không quen biết đang sử dụng ma túy, vì nghiện ma túy nên Th xin sử dụng cùng và đưa cho người đàn ông này 1.000.000đ nhờ mua hồng phiến hộ, người đàn ông nhận tiền và đi ra khỏi lán khoảng 5 phút sau thì quay lại đưa cho Th 01 gói ni lon màu hồng bên trong có 37 viên hồng phiến và nói còn thiếu 50.000đ, Th trả nốt số tiền 50.000đ nhận gói ma túy rồi quay lại đón Vừ Thị Ch về, trên đường đi Th vừa lái xe vừa đưa cho Ch gói ma túy nói là thuốc và nhờ Ch cầm hộ, Ch cầm gói ma túy trong lòng bàn tay và cũng không hỏi lại Th cụ thể. Khi đi đến khu vực bản Lốm Hỏm, xã Mường Lầm, huyện Sông Mã, thấy Tổ công tác đồn Công an Mường Lầm làm nhiệm vụ, Th bảo Ch ném gói nilon đang cầm trên tay xuống thì bị tổ công tác phát hiện, bắt quả tang và thu giữ vật chứng nêu trên.

Ngày 28/12/2017 tại Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La đã thành lập Hội đồng bóc mở niêm phong, xác định khối lượng vật chứng, trích mẫu giám định. Xác định 37 viên nén màu hồng thu của Th có tổng trọng lượng là 3,43 gam, trích 05 viên có trọng lượng 0,46 gam làm mẫu giám định ký hiệu T, còn lại 32 viên có trọng lượng 2,97 gam ký hiệu T1.

Kết luận giám định số 147/KLMT ngày 31/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T là chất ma túy; loại chất Methamphetamine; Trọng lượng mẫu gửi giám định là 0,46 gam." Tổng trọng lượng chất ma túy thu là 3,43 gam; Loại chất "Methamphetamine".

Cáo trạng số: 28/CT - VKSSM, ngày 30/3/2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã truy tố bị cáo Và A Th về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo điểm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự .

Đối với Vừ Thị Ch có hành vi cầm gói ma túy, quá trình điều tra và tại phiên tòa xác định Ch không biết đó là ma túy. Nên cơ quan điều tra không đặt vấn đề xử lý Vừ Thị Ch là có căn cứ.

Về nguồn gốc chất ma túy, bị cáo khai mua với người đàn ông dân tộc Mông không biết tên tuổi cụ thể, ngoài lời khai của bị cáo không còn căn cứ nào khác nên CQĐT không có căn cứ mở rộng điều tra vụ án.

Tại phiên tòa đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm truy tố đối với bị cáo và điều luật viện dẫn áp dụng; Đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy; Áp dụng: điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự xử phạt bị cáo từ 26 đến 32 tháng tù. Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

Vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 2 điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a, điểm b khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: trả lại cho bị cáo 450.000 đồng, tịch thu tiêu hủy 2,97 gam ma túy còn lại sau khi trừ đi mẫu gửi giám định, 01 mảnh nilon màu hồng không rõ hình dạng.

Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo đề nghị miễn án phí hình sự sơ thẩm.

Tại phiên tòa bị cáo nhất trí với nội dung bản cáo trạng và quan điểm truy tố, luận tội của vị đại diện Viện kiểm sát, không có tranh luận gì và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt vì bị cáo có hoàn cảnh gia đình khó khăn, bị cáo là lao động duy nhất trong gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ và các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được trang tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

 [1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an huyện Sông Mã, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, quyết định truy tố của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

 [2] Về hành vi của bị cáo được thể hiện: Ngày 26/12/2017 bị cáo Th mua 37 viên hồng phiến có tổng trọng lượng 3,43 gam với giá 1.050.000đ nhằm mục đích sử dụng đang trên đường vận chuyển để cất giấu thì bị phát hiện bắt quả tang cùng vật chứng.

Hành vi phạm tội của bị cáo được chứng minh bằng các căn cứ như sau:

- Lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang lập hồi 16 giờ 35 phút ngày 26/12/2017 tại khu vực bản Lốm Hỏm, xã Mường Lầm, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La.

- Kết luận giám định số 147/KLMT ngày 31/12/2017 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La kết luận số viên nén thu giữ được là Methamphetamin, cùng các chứng cứ tài liệu khác có trong hồ sơ vụ án.

Từ những chứng cứ nêu trên có đủ căn cứ kết luận bị cáo Và A Th phạm tội Tàng trữ trái phép chất ma túy.

 [3] Về pháp luật áp dụng: Thời điểm bị cáo thực hiện hành vi phạm tội Bộ luật hình sự năm 2015 chưa có hiệu lực thi hành nhưng đến thời điểm xét xử sơ thẩm Bộ luật hình sự 2015 đã có hiệu lực thi hành, Hội đồng xét xử nhận thấy việc áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015 có lợi hơn cho bị cáo về khung hình phạt nên cần áp dụng Bộ luật hình sự năm 2015 khi quyết định hình phạt đối với bị cáo là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật và cũng phù hợp với quan điểm truy tố và điều luật được viễn dẫn áp dụng của Viện kiểm sát nhân dân huyện Sông Mã.

 [4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tôi: Hành vi của bị cáo là nghiêm trọng nguy hiểm cho xã hội, cố ý xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Do đó cần phải xửphạt bị cáo nghiêm minh, nhằm răn đe giáo dục và để phòng ngừa chung

 [5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự:

- Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra tại phiên Tòa bị cáo khai báo thành khẩn, nhận tội, nhân thân tốt là tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 điều 51 Bộ luật hình sự.

 [6] Về hình phạt bổ sung: Bị cáo thuộc họ nghèo không có khả năng thi hành hình phạt bổ sung, nên không áp dụng.

 [7] Về nguồn gốc chất ma túy: Bị cáo khai mua của một người đàn ông dân tộc mông không quen biết gặp tại bản Nà Sèo, xã Nậm Ty, huyện Sông Mã. Ngoài lời khai của bị cáo không còn căn cứ nào khác để mở rộng điều tra vụ án, buộc bị cáo phải chịu trách nhiệm về toàn bộ số ma túy thu giữ được.

 [8] Đối với Vừ Thị Ch có hành vi cầm hộ ma túy cho bị cáo, khi cầm ma túy cho bị cáo Th, Ch không biết đó là ma túy nên không đặt vấn đề xử lý với Ch là có căn cứ, đúng quy định của pháp luật.

 [9] Về vật chứng của vụ án: Số ma túy sau khi trừ mẫu gửi giám định còn 2,97 gam là loại hàng Nhà nước cấm lưu hành và 01 mảnh 01 mảnh nilon màu hồng không rõ hình dạng, 01 phong bì niêm phong là những vật không có giá trị sử dụng cần tịch thu tiêu hủy; đối với 450.000 đồng là tài sản của bị cáo không liên quan đến phạm tội cần trả lại; đối với 01 Chếc xe mô tô BKS 26B2 - 210.41 cơ quan điều tra trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp là phù hợp cần chấp nhận.

 [10] Về án phí: Bị cáo thuộc hộ nghèo nên được miễn nộp án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Và A Th phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

 [1] Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 xử phạt bị cáo Và A Th 24 (hai mươi tư) tháng tù.Thời hạn tù tính từ ngày 26/12/2017.

Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

 [2] Vật chứng: Áp dụng điểm c khoản 1, khoản 2 Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; điểm a khoản 1, điểm b khoản 2 Điều 106 bộ luật tố tụng hình sự năm 2015:

- Trả lại cho bị cáo số tiền 450.000 đồng (bốn trăm năm mươi nghìn đồng);

- Tịch thu tiêu hủy một phong bì thư niêm phong, mặt trước phong bì ghi: Vật chứng vụ: Và A Th SN: 1994 ở bản HP, xã CE, huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La, hành vi cất dấu trái phép chất ma túy, bắt ngày 26/12/2017. Mặt sau phong bì có05 chữ ký, một đầu phong bì đã bị cắt, 01 mảnh nilon màu hồng không rõ hìnhdạng, bên trong có chứa 2,97 gam chất ma túy.

Theo biên bản giao nhận vật chứng, tài sản ngày 15/3/2018 của Ch cục thi hành án dân sự huyện Sông Mã, tỉnh Sơn La.

 [3] Về án phí: Áp dụng điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 Quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo.

 [4] Bị cáo, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (27/4/2018).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2018/HSST ngày 27/04/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:63/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Sông Mã - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 27/04/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về