Bản án 63/2018/HS-ST ngày 26/07/2018 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN B, THÀNH PHỐ C

BẢN ÁN 63/2018/HS-ST NGÀY 26/07/2018 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 26 tháng 7 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân Quận B, Thành phố C xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 55/2018/TLST-HS ngày 02 tháng 7 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 55/2018/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 7 năm 2018 đối với bị cáo:

Lợi Minh Vũ A (tên khác: Lùn), sinh ngày 26/10/1992 tại Thành phố C; Nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 601/25/35 Cách Mạng Tháng Tám, Phường 15, Quận B, Thành phố C; Nơi cư trú: 601/25/35 Cách Mạng Tháng Tám, Phường 15, Quận B, Thành phố C; Trình độ văn hóa: 01/12; Nghề nghiệp: Phụ hồ; Dân tộc: Hoa; Tôn giáo: Không; Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lợi M (đã chết) và bà Lê Thị H, sinh năm 1961; Hoàn cảnh gia đình: Chưa vợ con; Nhân thân: Ngày 21/4/2010 bị Tòa án nhân dân Quận B xử phạt 6 tháng tù về tội “Tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có” (theo Bản án số 50/2010/HSST); Tiền án: Ngày 08/6/2010 bị Tòa án nhân dân Quận B xử phạt 3 năm 3 tháng tù về tội “Cướp giật tài sản” (theo Bản án số 68/2010/HSST); Ngày 30/6/2012 bị Tòa án nhân dân Quận B xử phạt 5 năm 6 tháng về tội “Cướp giật tài sản” (theo Bản án số 83/2012/HSST); Tiền sự: Không; Bị cáo bị bắt tạm giam ngày 11/02/2018. Bị cáo có mặt tại phiên tòa.

- Người bị hại:

Bà Nguyễn Thị T, sinh năm 1981; Địa chỉ: 521/3K Cách Mạng Tháng Tám, Phường 13, Quận B, Thành phố C (vắng mặt).

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

Bà Lợi Minh Thảo H, sinh năm 1986; Địa chỉ: 601/25/35 Cách Mạng Tháng Tám, Phường 15, Quận B, Thành phố C (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ và diễn biễn tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 16 giờ ngày 07/02/2018, Lợi Minh Vũ A điều khiển xe môtô hiệu Yamaha Nouvo biển số 51V1-6103 chạy về hướng Cách Mạng Tháng Tám, Phường 15, Quận B. Khi đến trước nhà số 595/1 Cách Mạng Tháng 8, Phường 15, Quận B, A nhìn thấy chị Nguyễn Thị T điều khiển xe máy chạy cùng chiều, trên cổ chị T có đeo 01 sợi dây chuyền nên nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. A chạy xe đến cuối hẻm vòng ngược lại ngược chiều với chị T rồi dung tay trái giật chiếc dây chuyền trên cổ chị. Giật được dây chuyền, A tăng ga bỏ chạy thì bị các anh Nguyễn Phục T, Nguyễn Văn T đụng xe vào làm té ngã. Tuy nhiên, A bỏ xe chạy thoát. Vụ việc được Công an Phường 15, Quận B lập hồ sơ và chuyển đến Cơ quan cảnh sát Công an Quận B xử lý. Riêng sợi dây chuyền, chị Nguyễn Thị T đã nhặt lại.

Ngày 11/02/2018, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an Quận B bắt khẩn cấp Lợi Minh Vũ A về hành vi “Cướp giật tài sản”.

Tại Cơ quan Cảnh sát điều Công an Quận B, Lợi Minh Vũ A khai nhận hành vi phạm tội như trên.

Vật chứng của vụ án:

- 01 sợi dây chuyền bằng kim loại màu trắng, chị T khai mua tháng 10/2017 với giá 1.970.000 đồng. Cơ quan điều tra đã trả lại tài sản cho chị T. Nhận lại tài sản, chị T không có yêu cầu gì khác.

- 01 xe môtô hiệu Yamaha Nouvo biển số 51V1-6103, qua xác minh được biết chủ sở hữu hợp pháp là anh Khoan Minh H. Anh H mua xe vào năm 2004, đến tháng 6/2015 bán lại cho chị Lợi Minh Thảo H (chị ruột của Lợi Minh Vũ A) nhưng không làm thủ tục sang tên. Ngày 07/02/2018, A mượn xe của chị H đi công việc, sau đó phạm tội. Việc A phạm tội, chị H không biết nên Cơ quan điều tra trả xe cho chị H là có cơ sở.

Tại bản cáo trạng số 48/CT-VKS ngày 29/6/2018 Viện kiểm sát nhân dân Quận B, Thành phố C đã truy tố bị cáo Lợi Minh Vũ A về tội “Cướp giật tài sản” theo điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận B vẫn giữ nguyên cáo trạng truy tố đối với bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm d, i khoản 2, 5 Điều 171; điểm h, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự xử phạt bị cáo từ 4 năm đến 4 năm 6 tháng tù. Phạt tiền 10.000.000 đồng sung quỹ Nhà nước.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

Tại phiên tòa bị cáo Lợi Minh Vũ A khai nhận: khoảng 16 giờ 00 phút, ngày 07/02/2018, tại số nhà 595/1 Cách Mạng Tháng Tám, Phường 15, Quận B thấy trên cổ chị Nguyễn Thị T có sợi dây chuyền, A đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản. A đã điều khiển chiếc xe môtô hiệu Yamaha Nouvo biển số 51V1-6103 chạy ngược chiều với xe máy chị T, dùng tay trái giật sợi chuyền trên cổ chị T, sau đó tăng ga bỏ chạy thì bị anh Nguyễn Phục T, Nguyễn Văn T đụng làm té nên A đã bỏ xe và tẩu thoát. Đến ngày 11/02/2018 thì bị bắt.

Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, biên bản giữ người trong trường hợp khẩn cấp, biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu, biên bản xác định địa điểm, biên bản nhận dạng và các tài liệu cơ quan điều tra thu thập trong hồ sơ, đủ cơ sở kết luận bị cáo Lợi Minh Vũ A đã phạm tội “Cướp giật tài sản”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự.

Bị cáo sử dụng xe gắn máy làm phương tiện phạm tội đồng thời phạm tội khi bị hại cũng đang điều khiển xe gắn máy, là thuộc trường hợp sử dụng phương tiện, thủ đoạn nguy hiểm vì có khả năng làm ảnh hưởng đến tính mạng, sức khỏe của bị cáo, bị hại và những người lưu thông khác trên đường. Nhân thân bị cáo có 02 tiền án, đã tái phạm, chưa được xóa án tích, phạm tội lần này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm. Đây là tình tiết tăng nặng định khung hình phạt quy định tại điểm d, i khoản 2 Điều 171 Bộ luật Hình sự. Vì vậy, cần phải xử lý bị cáo nghiêm khắc trước pháp luật, cách ly bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian để giáo dục bị cáo nói riêng và để bảo đảm đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.

Khi quyết định hình phạt, Hội đồng xét xử đã xem xét trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tài sản chiếm đoạt đã thu hồi và trả lại cho người bị hại, do vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm h, s khoản 1, 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Về trách nhiệm dân sự: Người bị hại đã nhận lại tài sản và không yêu cầu giải quyết về trách nhiệm dân sự nên Hội đồng xét xử không xét.

Đối với chị Lợi Minh Thảo H cho A mượn xe không biết việc A thực hiện hành vi phạm tội, nên cơ quan điều tra trả lại xe gắn máy cho chị H là đúng theo pháp luật.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo, người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ vào điểm d, i khoản 2 Điều 171; điểm h, s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật Hình sự;

Tuyên bố bị cáo Lợi Minh Vũ A phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Xử phạt bị cáo: Lợi Minh Vũ A 4 (bốn) năm 6 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 11/02/2018.

Phạt tiền bị cáo Lợi Minh Vũ A 10.000.000 (mười triệu) đồng sung quỹ Nhà nước.

2. Căn cứ Điều 135; khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí của Tòa án. Buộc bị cáo nộp 200.000 (hai trăm nghìn) đồng án phí hình sự sơ thẩm

Bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Người bị hại vắng mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

320
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2018/HS-ST ngày 26/07/2018 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:63/2018/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận Bình Thuỷ - Cần Thơ
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/07/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về