Bản án 63/2018/DS-ST ngày 18/09/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ TUY HÒA, TỈNH PHÚ YÊN

BẢN ÁN 63/2018/DS-ST NGÀY 18/09/2018 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 18/9/2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa, mở phiên tòa xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 15/201/TL8ST- DS ngày 15/01/2018 “V/v tranh chấp hợp đồng vay tài sản” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 75/2018/QĐST - DS ngày 19/7/2018 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Trần Thị Thu H, sinh năm 1961; Địa chỉ: đường L, phường H, thành phố T, tỉnh Phú Yên. (Có mặt)

2. Bị đơn: Vợ chồng ông Hồ Khắc V, sinh năm 1967, bà Lê Thị Kim L, sinh năm 1969; Địa chỉ: đường L, phường B, thành phố T, tỉnh Phú Yên. (Vợ chồng ông V, bà L vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn trình bày: Do trước đây giữa nguyên đơn và chị Lê Thị Kim L cùng làm chung ở Công ty M thành phố Tuy Hòa nên quen biết nhau, do đó nguyên đơn có cho vợ chồng chị Lê Thị Kim L, anh Hồ Khắc V vay nhiều lần tổng số tiền 50.000.000đ. Từ đó đến nay nguyên đơn đã nhiều lần yêu cầu vợ chồng chị L, anh V trả số tiền trên nhưng vẫn không trả. Nay nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn vợ chồng chị Lê Thị Kim L, anh Hồ Khắc V tra lại số tiền vay gốc là 50.000.000đ, nguyên đơn không yêu cầu tính lãi.

Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần, nhưng vắng mặt nên Tòa không tiến hành hòa giải được. Căn cứ vào các Điều 227, Điều 228 của Bộ luật tố tụng dân sự Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Tuy Hòa phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử là đúng theo quy định của pháp luật và đề nghị Tòa áp dụng Điều 328 của Bộ luật dân sự chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về thủ tục tố tụng: Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn phải trả khoản tiền vay là tranh chấp về hợp đồng dân sự thuộc thẩm quyền của Tòa án nhân dân thành phố Tuy Hòa, tỉnh Phú Yên theo quy định tại khoản 3 Điều 26; Điều 35 của Bộ luật tố tụng Dân sự.

[2] Về nội dung vụ án: Bị đơn vắng mặt tại tòa nhưng các chứng cứ đều thể hiện vào ngày 3/8/2014 chị L đã mượn (vay) của nguyên đơn 5.000.000đ, ngày 14/10/2014 chị L tiếp tục vay số tiền 5.000.000đ và đến ngày 04/02/2015 vợ chồng chị L, anh V vay của nguyên đơn số tiền 40.000.000đ, tổng cộng các lần vay là 50.000.000đ. Do đó nguyên đơn có cho bị đơn vay số tiền nêu trên là có thật, nên yêu cầu của nguyên đơn là có cơ sở, phù hợp với quy định tại các Điều 471, 474 của Bộ luật dân sự 2005, nên Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn, buộc bị đơn phải trả cho nguyên đơn số tiền gốc vay là 50.000.000đ.

[3] Về án phí: Bị đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định pháp luật. Hoàn lại cho nguyên đơn tiền tạm ứng án phí đã nộp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng các Điều 471, 474 của Bộ luật dân sự 2005.

Tuyên xử: Chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn chị Trần Thị Thu H. Buộc bị đơn vợ chồng chị Lê Thị Kim L, anh Hồ Khắc V phải trả cho nguyên đơn số tiền gốc vay là 50.000.000đ (Năm mươi triệu đồng chẵn).

Khi bản án có hiệu lực pháp luật, kể từ ngày nguyên đơn có đơn yêu cầu thi hành án, nếu bị đơn chưa thi hành xong khoản tiền trên thì hàng tháng còn phải chịu khoản lãi theo quy định tại Điều 357 của Bộ luật dân sự năm 2015 tương ứng với số tiền và thời gian chưa thi hành án.

Về án phí: Áp dụng Điều 26 Nghị quyết số 326 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, vợ chồng bị đơn chị Lê Thị Kim L, anh Hồ Khắc V phải chịu 2.500.000đ (Hai triệu, năm trăm nghìn đồng chẵn) án phí dân sự sơ thẩm. Nguyên đơn không phải chịu án phí, hoàn trả lại cho nguyên đơn chị Trần Thị Thu H số tiền đã nộp tạm ứng án phí là 1.250.000đ (Một triệu, hai trăm năm mươi nghìn đồng), tại biên lai số AA/2015/0009836, ngày 11/01/2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Tuy Hòa.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6; 7; 7a; 7b; 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguyên đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

311
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2018/DS-ST ngày 18/09/2018 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:63/2018/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Tuy Hòa - Phú Yên
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 18/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về