Bản án 63/2017/HSST ngày 06/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN GIAO THỦY, TỈNH NAM ĐỊNH

BẢN ÁN 63/2017/HSST NGÀY 06/09/2017 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Hôm nay, ngày 06 tháng 9 năm 2017 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy, tỉnh Nam Định xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 63/2017/HSST ngày 16 tháng 8 năm 2017, quyết định đưa vụ án ra xét xử số 65/2017/HSST- QĐ ngày 25 tháng 8 năm 2017, đối với bị cáo:

Họ và tên: Vũ Văn Đ- Sinh năm 1988.

Nơi đăng ký hộ khẩu thường  trú và nơi cư trú: Xóm 9, xã G, huyện G, tỉnh N. Nghề nghiệp: Lao động tự do ; Trình độ văn hóa: Lớp 9/12; Dân tộc:

Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Vũ Đức Đ và bà Phạm Thị M Đỗ Thị T - Sinh năm 1995; Có một con sinh năm 2016.

Tiền án, tiền sự: Không.; Vợ là:

Nhân thân: Năm 2013 bị Tòa án nhân dân huyện Giao Thủy xử phạt 06 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”.

Bị cáo bị tạm giam tính từ ngày bắt tạm giữ 01/6/2017 cho đến nay. Hiện bị cáo đang bị tạm giam tại trại tạm giam Công an tỉnh Nam Định.

Tại phiên tòa: Có mặt bị cáo.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn  biến  tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 17 giờ 40 phút ngày 01/6/2017 Tổ công tác phòng CSĐT tội phạm về ma túy Công an tỉnh Nam Định tuần tra tại khu vực xóm 2 HTX Quyết Tiến xã Giao Tiến, huyện Giao Thủy phát hiện Vũ Văn Đ đi xe máy nhãn hiệu NoVo, BKS 18T1 - 1417 có biểu hiệu cất giấu trái phép chất ma túy. Tổ công tác đã yêu cầu Vũ Văn Đ dừng xe lại để kiểm tra, Tổ tuần tra đã thu giữ trên tay trái của Đ 01 gói giấy nhỏ bên trong có chứa chất bột dạng cục màu trắng. Đ khai đó là gói Heroine  Đ vừa mua mục đích để sử dụng cho bản thân được  niêm phong ký hiệu M. Ngoài ra còn thu giữ của Đ 01 xe  máy nhãn hiệu NoVo, BKS 18T1-1417. Tổ công tác đã lập biên bản bắt người  phạm tội quả tang , niêm phong vật chứng theo quy định và bàn giao cho cơ quan CSĐT Công an huyện Giao Thủy giải quyết theo thẩm quyền.

Tại phiên tòa: Bị cáo Vũ Văn Đ đã khai nhận toàn bộ hành vi vi phạm của mình như đã nêu trên.

Tại bản kết luận số 468/GĐKTHS ngày 02/6/2017 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu chất bột dạng cục màu trắng được niêm phong ký hiệu M gửi giám định là chất ma túy. Loại chất ma túy: Heroine. Trọng lượng mẫu M: 0,196 gam

Bản cáo trạng 66/CTR ngày 15/8/2017 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy truy tố bị cáo Vũ Văn Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã khai nhận hành vi cất giấu trái phép  01 Heroine  trọng lượng  0,196 gam mục đích để sử dụng cho bản thân như vậy hành vi của bị cáo đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” Do đó, Viện kiểm sát giữa nguyên quyết định truy tố đối với bị cáo về tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy”.  Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 1 Điều 194. Điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự: Xử phạt bị cáo từ 24 đến 30 tháng tù.

Về hình phạt bổ sung: Điều kiện kinh tế gia đình bị cáo khó khăn nên đề nghị không áp dụng hình phạt bổ sung bằng tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản khoản 2 điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số Heroine hoàn trả mẫu vật sau giám định.

Trước khi Hội đồng xét xử vào phòng nghị án, bị cáo được  nói lời sau cùng, bị cáo trình bày bản thân nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy của mình là phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt, cho bị cáo được miễn hình phạt bổ sung.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được  thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

Về hành vi, quyết  định tố tụng của Cơ quan điều  tra Công an huyện Giao Thủy, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện Giao Thủy, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố và thành viên Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án ghi biên bản phiên tòa đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Ngày 01/6/2017, bị cáo Vũ Văn Đ đã đi mua 01 gói ma túy, trên đường về thì bị bắt quả tang, bị cáo khai mua ma túy để sử dụng, vật chứng được thu giữ gửi  đi giám định. Tại bản kết luận giám định số 468/GĐKTHS ngày 02/6/2017 của phòng kỹ thuật hình sự công an tỉnh Nam Định kết luận: Mẫu gửi giám định là chất ma túy. Loại chất ma túy: Heroine. Trọng lượng  mẫu: 0,196 gam. Do đó bị cáo đã phạm  tội “Tàng trữ trái phép chất  ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 194 Bộ luật hình sự.

Hành vi phạm  tội của bị cáo đã xâm phạm  đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới trật tự trị an tại địa phương. Bị cáo có đủ khả năng nhận thức ma túy là hiểm họa của mỗi gia đình và cộng đồng xã hội là một trong những nguyên nhân làm gia tăng các tệ nạn xã hội, gia tăng tội phạm hình sự, xâm phạm tới đạo đức và sức khỏe con người.  Bị cáo biết việc làm của mình bị pháp luật cấm, thấy trước được tác hại của ma túy nhưng vẫn cố ý thực hiện mua ma túy về để sử dụng cho bản thân dẫn tới phạm tội

Khi quyết định hình phạt, HĐXX xem xét đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được áp dụng đối với bị cáo như sau.

Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Bị cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật hình sự.

Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại Cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai  báo, ăn năn hối cải. Do đó bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ quy định tại điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự.

Căn cứ Nghị quyết 41/2017/QH14 ngày 20/6/2017 của Quốc hội về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13, thực hiện các quy định tại khoản 3 Điều 7 Bộ luật hình sự năm 2015. Bị cáo phạm tội “ Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 194 của BLHS năm 1999 có khung hình phạt từ 02 đến 07 năm, nhưng so với khoản 1 Điều 249 tương ứng của BLHS năm 2015 có khung hình phạt thấp  hơn từ 01 đến 05 năm. Vì vậy đây là căn cứ cho HĐXX khi quyết định hình phạt có lợi cho bị cáo.

Căn cứ vào tính chất mức độ của hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng xét xử thấy cần phải xử lý bị cáo bằng hình phạt tù có thời hạn, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định đủ để bị cáo cải tạo khi trở về cộng đồng là cho gia đình và xã hội công dân có ích

Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 194 Bộ luật hình sự “Người  phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng…”, do đó, bị cáo có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của bị cáo tại phiên tòa cho thấy bị cáo là người nghiện ma túy, điều kiện kinh tế khó khăn. Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự, tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số Heroine hoàn trả sau giám định.

Đối với chiếc xe máy xe máy nhãn hiệu NoVo BKS 18T1 - 1417 thu giữ của Vũ Văn Đ, quá trình điều tra xác định chiếc xe Đ mượn của anh Đinh Văn D, trú tại xóm Đ, xã X, huyện X, tỉnh N. Khi cho Đ mượn xe anh D không biết Đ dùng xe vào việc đi mua ma túy nên Cơ quan CSĐT Công an huyện Giao Thủy đã tạm giao cho anh D quản lý và sử dụng là phù hợp.

Về nguồn gốc số Heroine Vũ Văn Đ khai mua của một người  đàn ông không biết tên, tuổi, địa chỉ ở khu vực chợ xã Giao Tiến. Quá trình điều tra chưa xác định được  người  bán ma túy cho Đ nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an huyện Giao Thủy tách ra để điều tra và có biện pháp xử lý sau là phù hợp.

Về án phí

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm  theo quy định tại Điều 99 Bộ luật tố tụng hình sự;

Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30 tháng 12 năm 2016 củA Ủy ban thường  vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo bản án theo quy định tại Điều 231 và Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Vũ Văn Đ phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

1. Áp dụng khoản 1 Điều 194; điểm p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999; khoản 3 Điều 7, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015, xử phạt: Bị cáo Vũ văn Đ 27 (hai mươi  bảy) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 01/6/2017.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 76 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu cho tiêu hủy toàn bộ số Heroine hoàn trả mẫu vật sau giám định. (Được ghi chi tiết trong biên bản giao nhận vật chứng lập ngày 15/8/2017 tại chi cục Thi hành án dân sự huyện Giao Thủy).

3. Án phí: Áp dụng Điều  99 Bộ luật tỐ tụng hình sự; Nghị quyết 326/2016 ngày 30 tháng 12 năm 2016 củA Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo Vũ Văn Đ phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

4. Quyền kháng cáo: Theo quy định tại Điều 231 và Điều 234 Bộ luật tố tụng hình sự, bị cáo Vũ Văn Đ  có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì bị cáo có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng  chế thi hành án. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 63/2017/HSST ngày 06/09/2017 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:63/2017/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Giao Thủy - Nam Định
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 06/09/2017
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về