Bản án 630/2020/HSST ngày 29/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN,TỈNH THÁI NGUYÊN

BẢN ÁN 630/2020/HSST NGÀY 29/12/2020 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 29 tháng 12 năm 2020 tại Hội trường xét xử Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 636/2020/TLST-HS ngày 01 tháng 12 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 631/2020/QĐXXST-HS ngày 11/12/2020 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Trần Văn N, tên gọi khác: Không; sinh ngày 11 tháng 11 năm 1981; ĐKHKTT và chỗ ở: Xóm C, xã Th, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp:Tự do; Trình độ văn hoá: 05/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: N; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt N; con ông Trần X H (Đã chết) và con bà Nông Thị H; có vợ là Hoàng Thị X, sinh năm 1981; có 03 con, con lớn sinh năm 2001, con thứ hai sinh năm 2007, con thứ ba sinh năm 2010; Tiên án, tiền sự: Không; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/9/2020 đến nay, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên.(Có mặt tại phiên tòa)

2. Họ và tên: Nguyễn Hữu Th, tên gọi khác:không; Sinh ngày14 tháng 3 năm 1975; ĐKHKTT và chỗ ở: Tổ 08, phường Th, TP.Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên; Nghề nghiệp: Tự do; Trình độ văn hóa: 07/12; Dân tộc: Kinh; Giới tính: N; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt N; Con ông: Nguyễn Hữu Th và con bà: Phạm Thị D (Đã chết); có vợ: Nguyễn Thị L, sinh năm 1984, có 02 con, con lớn sinh năm 2004, con nhỏ sinh năm 2006;Tiên sự: Không;Tiền án: Tại bản án số 151 ngày 07/02/1996 của Tòa phúc thẩm -Tòa án nhân dân Tối Cao xử phạt Nguyễn Hữu Th 05 năm tù về tội “Hiếp dâm”. Ra trại ngày 30/8/1999. Chấp hành xong án phí ngày 10/11/2004;Đối với số tiền bồi thường dân sự tại thời điểm xác minh Th chưa thực hiện, người được thi hành án không có đơn yêu cầu; Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 18/9/2020 đến nay, hiện bị cáo đang bị tạm giam tại Trại Tạm giam Công an tỉnh Thái Nguyên.(Có mặt tại phiên tòa) Người chứng kiến: Anh Vũ Quang M, sinh năm 1961,trú tại:Tổ 04,phường Tân Lập, TP.Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên (vắng mặt).

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Hoàng Thị X,sinh năm 1981, trú tại: Xóm C, xã Th, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên quản lý sử dụng. ( Có mặt tại phiên tòa).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ 10 phút ngày 18/9/2020, tổ công tác của Công an phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên làm nhiệm vụ tuần tra kiểm soát tại khu vực tổ 08, phường Tân Lập thì phát hiện 02 người N giới đang đi xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen, BKS 20B2-239.73 có biểu hiện liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra, người N giới điều khiển xe mô tô tự khai là Trần Văn N, người N giới ngồi sau tự khai là Nguyễn Hữu Th. Th tự giác lấy từ túi quần bên phải phía trước Th đang mặc ra 01 gói giấy màu trắng, bên trong chứa chất bột màu trắng giao nộp cho tổ công tác. Th khai đó là Heroine của Th và N mua để cùng sử dụng. Kiểm tra đối với N không phát hiện thu giữ gì. Tổ công tác đã tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Trần Văn N, Nguyễn Hữu Th và niêm phong, thu giữ vật chứng theo quy định. Ngoài ra, tổ công tác còn tạm giữ 01 xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen, BKS 20B2- 239.73 và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen.

Cùng ngày, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã tiến hành mở niêm phong, cân toàn bộ số chất bột màu trắng thu giữ trên người Nguyễn Hữu Th có khối lượng là: 0,116 gam, cho vào bì niêm phong ký hiệu N gửi giám định.

Tại bản Kết luận giám định số 1215/KL-KTHS ngày 26/9/2020 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên kết luận: Chất bột màu trắng trong phong bì niêm phong ký hiệu N gửi giám định là chất ma túy, loại Heroine, có khối lượng là 0,116 gam.

Tại cơ quan điều tra, Trần Văn N, Nguyễn Hữu Th khai: N và Th quen biết nhau từ năm 2018. Khoảng 13 giờ 00 phút ngày 18/9/2020, N điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Honda Wave màu đen, BKS 20B2-239.73 đi từ nhà ở xóm C, xã Th, thành phố Thái Nguyên đến nhà Th ở tổ 08, phường Th, thành phố Thái Nguyên để rủ Th đi mua ma túy về cùng sử dụng, Th đồng ý. N điện thoại cho 01 người đàn ông không rõ địa chỉ, lai lịch để hỏi mua ma túy, người này hẹn gặp ở khu vực chợ Bờ Hồ thuộc tổ 6, phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên. N điều khiển xe mô tô chở Th đi đến khu vực chợ Bờ Hồ, N đưa cho Th 180.000 đồng để mua ma túy. Tại đây, N và Th gặp người đàn ông đã hẹn trước, Th trực tiếp mua của người này 01 gói ma túy heroine được bọc bằng giấy màu trắng bằng số tiền 180.000 đồng N đưa cho Th. Sau khi mua được ma túy, Th cất gói ma túy trong túi quần bên phải phía trước, ngồi sau xe mô tô do N điều khiển đi tìm nơi sử dụng nhưng chưa kịp sử dụng thì bị tổ công tác Công an phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên bắt quả tang, thu giữ vật chứng như nêu trên.

Tại bản Cáo trạng số 638/CT-VKSTPTN ngày 27 tháng 11 năm 2020, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên đã quyết định truy tố Trần Văn N và Nguyễn Hữu Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa các bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Hữu Th khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung bản cáo trạng truy tố;

Trong phần luận tội đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Hữu Th về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Đề nghị Hội đồng xét xử: Căn cứ Điểm c khoản 1 Điều 249, Điểm s khoản 1 Điều 51, điểm h khoản 1 Điều 52 (Đối với bị cáo Th); Điều 38, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015: Xử phạt: Trần Văn N từ 18 đến 24 tháng tù;Xử phạt: Nguyễn Hữu Th từ 24 đến 30 tháng tù; Không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo Trần Văn N và Nguyễn Hữu Th;Về vật chứng của vụ án: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; §iều 47 Bộ luật hình sự năm 2015: Đề nghị Hội đồng xét xử: Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) bì niêm phong ký hiệu N bên trong chứa ma túy và vỏ bao gói mẫu, mặt sau có chữ ký của Trần Đức Thủy, Nguyễn Minh Thắng và 02 dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên.

Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen, đã qua sử dụng có số IMEI1:359366090321375; số IMEI 2: 359366090321383.

Trả lại cho chị Hoàng Thị X,sinh năm 1981, trú tại: Xóm C, xã Th, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên: 01 (một) xe moto nhãn hiệu Honda, số loại Wave, màu sơn đen bạc, BKS:20B2-23973; số máy: JA39E-1069449; Số khung:

RLHJA3918KY211224; Dung tích xi lanh 109 Về án phí và quyền kháng cáo: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo không tranh luận, bị cáo Trần Văn N và bị cáo Nguyễn Hữu Th thừa nhận việc truy tố và xét xử các bị cáo về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự là không oan, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

Phần lời nói sau cùng bị cáo Trần Văn N và bị cáo Nguyễn Hữu Th xin giảm nhẹ hình phạt để sớm trở về với gia đình và xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tính hợp pháp của các hành vi, quyết định tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Thái Nguyên, điều tra viên;

Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên; Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Hữu Th và Trần Văn N và những người tham gia tố tụng khác không có ai ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của các bị cáo: Tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo Nguyễn Hữu Th và Trần Văn N thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội do các bị cáo thực hiện.Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà là khách quan phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra, phù hợp với lời khai của người chứng kiến, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan,với vật chứng đã thu được, Biên bản bắt người phạm tội quả tang, Kết luận giám định, vật chứng thu giữ và các chứng cứ tài liệu khác được thu thập hợp lệ có trong hồ sơ vụ án. Như vậy, Hội đồng xét xử có đủ căn cứ kết luận: Khoảng 13 giờ 20 phút ngày 18/9/2020, tại khu vực tổ 08, phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên, Trần Văn N, Nguyễn Hữu Th có hành vi tàng trữ 0,116 gam Heroine mục đích để sử dụng cho bản thân thì bị tổ công tác của Công an phường Tân Lập phát hiện, bắt quả tang, thu giữ vật chứng.

Hành vi, ý thức của các bị cáo đã đủ yếu tố cấu thành tội “ Tàng trữ trái phép chất ma tuý” tội phạm và hình phạt quy định tại điểm c, khoản 1, Điều 249 Bộ luật hình sự.

[3]. Bản cáo trạng số 638/CT-VKSTPTN ngày 27/11/2020 của Viện Kiểm sát nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên truy tố các bị cáo Nguyễn Hữu Th và Trần Văn N về tội danh và điều luật viện dẫn là có căn cứ và đúng quy định của pháp luật.

Nội dung điều luật như sau:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

c) Heroine, ... có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam.” [4] Về tính chất, mức độ, hành vi: Xét tính chất mức độ của vụ án là nghiêm trọng, hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội. Hành vi đó đã trực tiếp xâm phạm đến chế độ quản lý độc dược của Nhà nước gây mất trật tự trị an xã hội.Các bị cáo nhận thức được tác hại của ma túy đối với sức khỏe, kinh tế xã hội, nhưng do bản thân nghiện ma túy nên đã dẫn đến phạm tội.

[5] Xét vai trò các bị cáo trong vụ án này thấy rằng, các bị cáo đồng phạm với vai trò giản đơn , các bị cáo Nguyễn Hữu Th và Trần Văn N đông pham vơi vai tro là ngươi trưc tiêp thưc hiên tôi pham.

[6] Xét nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với các bị cáo Hội đồng xét xử nhận thấy: Trong vụ án này bị cáo Trần Văn N, Nguyễn Hữu Th được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự là: “Thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự. Bị cáo Trần Văn N không phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.Bị cáo Nguyễn Hữu Th phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Tái phạm” quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự.

[7] Về hình phạt: Căn cứ vào tính chất, mức độ tội phạm do các bị cáo thực hiện, sau khi xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân đối với các bị cáo. Hội đồng xét xử thấy rằng các bị cáo Nguyễn Hữu Th và Trần Văn N trong quá trình điều tra và tại phiên tòa đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải. Vì vậy, cần xem xét giảm một phần hình phạt cho các bị cáo để các bị cáo yên tâm cải tạo tốt sớm trở về với gia đình và xã hội, thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật. Mức hình phạt mà vị đại diện Viện kiểm sát đề nghị trong phần luận tội là có phần nghiêm khắc.

[8].Về hình phạt bổ sung: Ngoài hình phạt tù lẽ ra Hội đồng xét xử áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền, nhưng theo biên bản xác minh, lời khai tại phiên tòa, các bị cáo không có nghề nghiệp, không có thu nhập, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là hình phạt tiền đối với các bị cáo.

[9].Về xử lý vật chứng: Căn cứ Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự; §iều 47 Bộ luật hình sự năm 2015: Đối với: 01 (một) bì niêm phong ký hiệu N bên trong chứa ma túy và vỏ bao gói mẫu, mặt sau có chữ ký của Trần Đức Thủy, Nguyễn Minh Thắng và 02 dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên cần tịch thu tiêu hủy.

Đối với: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen, đã qua sử dụng có số IMEI 1: 359366090321375; số số IMEI 2: 359366090321383 bị cáo sử dụng vào việc phạm tội cần tịch thu nộp ngân sách nhà nước; Đối với:01 (một) xe moto nhãn hiệu Honda, số loại Wave, màu sơn đen bạc, BKS: 20B2- 23973; số máy: JA39E-1069449; Số khung: RLHJA3918KY211224; Dung tích xi lanh 109 tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa bị cáo và chị X đều xác định chiếc xe trên là của chị X mua để phục vụ cho việc đi lại,sinh hoạt hàng ngày trong gia đình bị cáo sử dụng chiếc xe trên đi mua ma túy chị X không biết, do đó cần trả lại chiếc xe trên cho chị Hoàng Thị X,sinh năm 1981, trú tại: Xóm C, xã Th, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên quản lý sử dụng.

[10]. Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[11].Về quyền kháng cáo: Các bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

[12].Các vấn đề khác: Vê nguôn gôc số ma túy bị thu giữ Trần Văn N, Nguyễn Hữu Th khai mua của một người đàn ông không rõ lai lịch, địa chỉ tại khu vực phường Tân Lập, thành phố Thái Nguyên. Quá trình điều tra không xác định được nhân thân, lai lịch của đối tượng này nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không có cơ sở làm rõ để xử lý;Đối với chị Hoàng Thị X (sinh năm 1981, trú tại: Xóm C, xã Th, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên) là chủ sở hữu chiếc xe mô tô BKS 20B2-239.73; xét thấy chị X không biết Trần Văn N sử dụng xe để đi mua ma túy nên Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an thành phố Thái Nguyên không xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1/ Căn cứ vào: Điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Xử phạt: Bị cáo Trần Văn N 15 ( Mười lăm) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 18/9/2020. Quyết định tạm giam bị cáo Trần Văn N 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

* Căn cứ vào: Điểm c Khoản 1 Điều 249, điểm s khoản 1 Điều 51, Điểm h khoản 1 Điều 52, Điều 38, Điều 17, Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự: Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Hữu Th 18 ( Mười tám) tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; Thời hạn tù tính từ ngày tạm giữ, tạm giam bị cáo 18/9/2020.Quyết định tạm giam bị cáo Nguyễn Hữu Th 45 (bốn mươi lăm) ngày kể từ ngày tuyên án để đảm bảo thi hành án.

2/ Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo Nguyễn Hữu Th và bị cáo Trần Văn N.

3/ Về vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự năm 2015; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự: Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) bì niêm phong ký hiệu N bên trong chứa ma túy và vỏ bao gói mẫu, mặt sau có chữ ký của Trần Đức Thủy, Nguyễn Minh Thắng và 02 dấu của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thái Nguyên Tịch thu nộp ngân sách nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Masstel màu đen, đã qua sử dụng có số IMEI 1: 359366090321375; số số IMEI 2: 359366090321383 Trả lại cho Hoàng Thị X,sinh năm 1981, trú tại: Xóm C, xã Th, thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên quản lý sử dụng: 01 (một) xe moto nhãn hiệu Honda, số loại Wave, màu sơn đen bạc, BKS: 20B2-23973; số máy: JA39E- 1069449; Số khung: RLHJA3918KY211224; Dung tích xi lanh 109.

(Tình trạng vật chứng như biên bản giao nhận vật chứng, tài sản số 110 ngày 11/11/2020 giữa Công an thành phố Thái Nguyên với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên).

4/ Về án phí: Căn cứ khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015; Luật Phí và lệ phí năm 2015; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí, lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Nguyễn Hữu Th và bị cáo Trần Văn N mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm vào ngân sách Nhà Nước.

5/ Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, Điều 333 Bộ luật Tố tụng hình sự. Án xử công khai sơ thẩm có mặt các bị cáo, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan, báo cho các bị cáo Trần Văn N, Nguyễn Hữu Th, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan chị Hoàng Thị X biết có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

179
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 630/2020/HSST ngày 29/12/2020 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:630/2020/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thái Nguyên - Thái Nguyên
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 29/12/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về