Bản án 629/2019/HNGĐ-ST ngày 03/07/2019 về tranh chấp ly hôn

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN BÌNH CHÁNH - TP. HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 629/2019/HNGĐ-ST NGÀY 03/07/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN

Ngày 03 tháng 7 năm 2019 tại Phòng xử án của Tòa án nhân dân huyện Bình Chánh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân và gia đình thụ lý số: 1447/2017/TLST-HNGĐ ngày 18 tháng 12 năm 2017 về việc “Tranh chấp ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 129/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số 125/2019/QĐST-HNGĐ ngày 07 tháng 6 năm 2019 và Quyết định thay đổi người tiến hành tố tụng số 45/2019/QĐST-HNGĐ ngày 02 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Phan Ngọc H, sinh năm: 1989. (có mặt)

Địa chỉ: A4/34V ấp 1B, xã VLB, huyện BC, TP H.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Thanh T, sinh năm: 1988. (vắng mặt)

Địa chỉ: A4/30C ấp 1B, xã VLB, huyện BC, TP H

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Phan Ngọc H trình bày: Bà H và ông T bắt đầu chung sống với nhau từ năm 2011 do hai bên tự tìm hiểu, có tổ chức đám cưới và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã BĐ, Thị xã GC, Tỉnh TG vào ngày 11/10/2011. Thời gian đầu vợ chồng chung sống bình thường và chỉ có mâu thuẫn nhỏ. Đến năm 2017 thì mâu thuẫn vợ chồng phát sinh nghiêm trọng, nguyên nhân là do ông T hàng ngày có đi làm nhưng khi hết giờ làm vẫn không về nhà mà thường xuyên đi nhậu không chăm lo cho gia đình do đó hai vợ chồng thường xuyên cãi nhau. Do vợ chồng chung sống không hòa hợp nên vợ chồng sống ly thân mỗi người ở một nơi từ tháng 7 năm 2018 đến nay. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không thể hàn gắn được nên bà H yêu cầu Tòa án giải quyết cho ly hôn với ông Nguyễn Thanh T.

Về con chung: Bà H và ông T chung sống với nhau có 01 (một) con chung là trẻ Nguyễn Minh T; sinh ngày 21/12/2012; giới tính: nam. Khi ly hôn, bà H yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ T và bà H không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung: Bà H xác nhận không có.

Về nợ chung: Bà H xác nhận không có.

Bị đơn ông Nguyễn Thanh T vắng mặt trong suốt quá trình giải quyết vụ án nên Tòa án không thể ghi nhận ý kiến của ông T.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án. Đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện Bình Chánh đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phan Ngọc H.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Bà Phan Ngọc H nộp đơn xin ly hôn với ông Nguyễn Thanh T. Theo kết quả xác minh của Công an xã VLB, huyện Bình Chánh thì ông Nguyễn Thanh T thực tế có tạm trú tại nhà trọ địa chỉ A4/30C ấp 1B, xã VLB, huyện BC, TP H. Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện BC, TP H.

[2] Tòa án đã tiến hành tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng mời ông Nguyễn Thanh T đến Tòa án để tham gia phiên tòa giải quyết vụ án nhưng ông T vẫn vắng mặt. Do đó, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông T theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 227 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Ông Nguyễn Thanh T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn không đến Tòa án để giải quyết vụ án nên ông T đã tự tước bỏ quyền được chứng minh của mình. Ông T phải chịu hậu quả của việc không chứng minh theo quy định tại Điều 91 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015. Vì vậy, Hội đồng xét xử căn cứ yêu cầu xin ly hôn, lời trình bày của bà H và các tài liệu có trong hồ sơ vụ án làm chứng cứ để xem xét giải quyết vụ án.

[3] Về quan hệ vợ chồng: Theo giấy chứng nhận kết hôn số 141/2011, quyển số 02/2011 do Ủy ban nhân dân xã BĐ, Thị xã GC, Tỉnh TGcấp ngày 11/10/2011 có cơ sở xác định quan hệ hôn nhân giữa bà Phan Ngọc H và ông Nguyễn Thanh T là hôn nhân hợp pháp được quy định tại Điều 9 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay bà H xác định tình cảm vợ chồng không còn, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được nên bà H yêu cầu được ly hôn với ông T để mỗi người tạo dựng cuộc sống riêng.

Hội đồng xét xử xét thấy yêu cầu trên của bà H hoàn toàn phù hợp với quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Bởi lẽ, theo lời trình bày của bà H thì quan hệ vợ chồng của bà H và ông T đã phát sinh mâu thuẫn từ năm 2017, nguyên nhân là do ông T không chăm lo cho gia đình và vợ chồng chung sống không hòa hợp nên thường xuyên cãi nhau. Do vợ chồng không còn tiếng nói chung nên bà H và ông T đã sống ly thân từ tháng 7 năm 2018 cho đến nay. Điều này cho thấy tình trạng hôn nhân giữa bà H và ông T là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được.

Tại công văn trả lời xác minh tình trạng hôn nhân số 2755/UBND ngày 09/10/2018 của Ủy ban nhân dân xã VLB, huyện BC, TP H có nội dung: Qua xác minh thì quá trình chung sống vợ chồng ông T và bà H bất đồng quan điểm nhiều lần dẫn đến ly hôn. Hiện nay ông T và bà H đã sống ly thân từ tháng 7 năm 2018. Giữa bà H và ông T có với nhau một con chung và hiện nay do bà H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng.

Mặt khác, do ông T đã được Tòa án tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng để mời tham dự phiên hòa giải và tham dự phiên tòa nhưng ông T vẫn vắng mặt không có lý do. Điều này thể hiện ông T không có thiện chí để Tòa án tiến hành hòa giải để vợ chồng đoàn tụ. Do đó, Hội đồng xét xử nghĩ nên chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của bà H đối với ông T.

[4] Về con chung: Bà Phan Ngọc H xác nhận bà và ông T một con chung là trẻ Nguyễn Minh T; sinh ngày 21/12/2012; giới tính: nam. Khi ly hôn, bà H yêu cầu được trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ T và bà H không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014: “Vợ chồng thỏa thuận về người trực tiếp nuôi con, nghĩa vụ, quyền của mỗi bên sau khi ly hôn đối với con; trường hợp không thỏa thuận được thì Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ 07 tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con”.

Theo bà H thì hiện nay trẻ T đang sống cùng bà H và bà H có đủ điều kiện để chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ T nên khi ly hôn bà H yêu cầu được tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ T. Do ông T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng vẫn vắng mặt và không chứng minh điều kiện, khả năng chăm sóc con chung nên Hội đồng xét xử chỉ xem xét giải quyết vấn đề con chung theo yêu cầu của bà H, nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

Đối với nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con khi ly hôn, do bà H tự nguyện không yêu cầu ông T thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi trẻ T nên Hội đồng xét xử ghi nhận việc bà H không yêu cầu ông T thực hiện nghĩa cấp dưỡng nuôi con, nếu sau này các đương sự có sự tranh chấp về cấp dưỡng nuôi con sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

[5] Về tài sản chung: Do bà H xác nhận không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết, nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

[6] Về nợ chung: Do bà H xác nhận không có và không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết, nếu sau này các đương sự có tranh chấp sẽ được giải quyết trong một vụ án khác.

[7] Về án phí: Bà Phan Ngọc H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu xin ly hôn theo quy định tại Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, điểm b khoản 2 Điều 227 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015;

Áp dụng Điều 56, 57, 58, 81, 82, 83 và Điều 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014;

Áp dụng Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Tuyên xử:

1. Về quan hệ vợ chồng: Chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà Phan Ngọc H đối với ông Nguyễn Thanh T.

Bà Phan Ngọc H được ly hôn với ông Nguyễn Thanh T. Giấy chứng nhận kết hôn 141/2011, quyển số 02/2011 do y ban nhân dân xã BĐ, Thị xã GC, Tỉnh TG cấp ngày 11/10/2011 không còn giá trị pháp lý.

2. Về con chung: Giao trẻ Nguyễn Minh T; sinh ngày 21/12/2012; giới tính: nam cho bà Phan Ngọc H trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng và tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi trẻ T đối với ông Nguyễn Thanh T.

Ông Nguyễn Thanh T có quyền tới lui thăm nom chăm sóc con chung không ai có quyền ngăn cản. Vì lợi ích của con chung, khi cần thiết hai bên có quyền xin thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về tài sản chung: Bà Phan Ngọc H xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

4. Về nợ chung: Bà Phan Ngọc H xác nhận không có nên Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết.

5. Về án phí: Bà Phan Ngọc H chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu xin ly hôn, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) mà bà H đã nộp theo biên lai thu số AA/2017/0031013 ngày 08/12/2017 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện BC, TP H. Bà H đã nộp đủ án phí.

6. Về quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày tuyên án. Riêng đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

7. Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

198
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 629/2019/HNGĐ-ST ngày 03/07/2019 về tranh chấp ly hôn

Số hiệu:629/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Bình Chánh - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 03/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về