Bản án 62/2020/HNGĐ-ST ngày 25/08/2020 về ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN L, TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 62/2020/HNGĐ-ST NGÀY 25/08/2020 VỀ LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 25 tháng 8 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 202/2020/TLST- HNGĐ ngày 21 tháng 5 năm 2020 về việc “ ly hôn; nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 14 tháng 7 năm 2020; Quyết định hoãn phiên toà số 80/2020/QĐST-HNGĐ ngày 30 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Chị Vũ Thị H, sinh năm 1988 “có mặt”.

Bị đơn: Anh Nguyễn Đăng D, sinh năm 1981 “vắng mặt”.

Cùng địa chỉ: Thôn M, xã S, huyện L, tỉnh Bắc Giang.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 25/3/2020 và trong quá trình xét xử, nguyên đơn chị Vũ Thị H trình bày:

Về hôn nhân: Chị với anh Nguyễn Đăng D kết hôn với nhau từ năm 2017. Trước khi kết hôn hai bên có được tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã S. Sau khi kết hôn, vợ chồng về chung sống với nhau ngay tại thôn M, S. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hòa hợp hạnh phúc, đến năm 2014 vợ chồng đã xảy ra mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng là do không hợp nhau, hay bất đồng quan điểm, anh D không tu chí làm ăn và không có trách nhiệm với gia đình, cuộc sống chung không hạnh phúc. Vợ chồng sống ly thân từ năm 2019 cho đến nay không còn quan hệ tình cảm cũng như kinh tế. Nay xét thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn vợ chồng ngày càng trầm trọng, cuộc sống chung không thể kéo dài, chị vẫn giữ nguyên quan điểm đề nghị giải quyết ly hôn với anh D.

Về con chung: Vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Đăng Quốc V, sinh ngày 13/9/2008. Cháu Nguyễn Băng Tâm, sinh ngày 27/01/2020. Nguyện vọng của chị về con chung là sau ly hôn được nuôi dưỡng cháu Tâm và đồng ý để anh D nuôi cháu V. Về cấp dưỡng nuôi con chung, chị không yêu cầu anh D phụ cấp dưỡng.

Về tài sản riêng, chung, công nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Anh Nguyễn Đăng D trình bày:

Anh thống nhất lời trình bày trên của chị H về quan hệ hôn nhân, thời gian kết hôn và cưới có đăng ký kết hôn. Vợ chồng ly thân từ năm 2019 cho tới nay. Anh không đồng ý ly hôn vì cho rằng vợ chồng không có mâu thuẫn gì và nếu ly hôn các con sẽ khổ.

Về con chung: Anh xác định lời hình bày chị H là đúng. Anh thống nhất quan điểm về con chung của chị H. Sau khi ly hôn, nguyện vọng anh được trực tiếp nuôi cháu V và chị H nuôi cháu Tâm. Về cấp dưỡng nuôi con không yêu cầu cấp dưỡng.

Về tài sản riêng, chung, công nợ: Anh không yêu cầu Toà án giải quyết.

Đại diện Viện kim sát nhân dân huyện L tham gia phiên tòa xét xử sơ thẩm, phát biểu ý kiến: Quá trình giải quyết vụ án từ khi thụ lý đến trước khi mở phiên toà Thẩm phán và Thư ký Toà án tuân theo đúng trình tự tố tụng. Tại phiên toà Hội đồng xét xử thực hiện đúng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. về phía các đương sự, nguyên đơn thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định pháp luật. Bị đơn chưa chấp hành các quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều Điều 147; Điều 227; 228; 271 và Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Nghị quyết 326/UBTVQH ngày 30/12/2016 xử:

Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Vũ Thị H và anh Nguyễn Đăng D.

Về nuôi con chung: Giao chị H trực tiếp nuôi dưỡng cháu V và anh D trực tiếp nuôi dưỡng cháu Tâm. về cấp dưỡng nuôi con chung; về tài sản riêng, chung; công nợ chung: Không đặt ra xem xét giải quyết. Ngoài ra còn đề xuất về án phí và quyền kháng cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và được thẩm vấn công khai tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên toà, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Về tố tụng: Căn cứ vào Điều 28; Điều 35 Bộ luật tố tụng dân sự, vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện L, tỉnh Bắc Giang; Tại phiên tòa bị đơn đã được triệu tập hợp lệ lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt không có lý do, Hội đồng xét xử căn cứ vào Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về hôn nhân: Chị H và anh D kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn, khi kết hôn đảm bảo đúng điều kiện kết hôn theo quy định pháp luật nên xác định là hôn nhân hợp pháp. Sau một thời gian chung sống chị H xác định vợ chồng có phát sinh mâu thuẫn do không hợp nhau, hay bất đồng quan điểm, anh D không tu chí làm ăn và không quan tâm tới gia đình, cuộc sống chung không hạnh phúc và vợ chồng ly thân nhau từ năm 2019 cho đến nay không còn quan hệ tình cảm cũng như kinh tế. Nay anh D không đồng ý ly hôn và cho rằng vợ chồng không mâu thuẫn gì. Toà án đã tiến hoà giải nhưng không được. Nay chị H vẫn cương quyết đề nghị Toà án giải quyết ly hôn.Vì vậy xác mâu thuân vợ chông giữa chị H và anh D đã lâm vào tình trạng trâm trọng, đời sống chung không thể kéo dài nên chấp nhận yêu cầu ly hôn của chị H theo quy định tại Điều 51, 56 Luật hôn nhân và gia đình.

[3] Về nuôi con chung. Chị H và chị D đã thoả thuận được nhau về nuôi con chung, xét thấy nguyện vọng của chị H và anh D là phù hợp theo quy định tại khoản 2 Điều 81 Luật hôn nhân và gia đinh nên giao cho chị H nuôi cháu Tâm, anh D nuôi cháu V. về cấp dưỡng nuôi con, các bên không yêu cầu nên không đặt ra xem xét giải quyết.

[4] Về Tài sản riêng, chung; Công nợ chung: Do các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét, giải quyết.

[5] Về án phí: Chị H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016.

[6] Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo bản án theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 51, 56, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Điều 147; Điều 227; 228; 271; Điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 xử:

1. Về quan hệ hôn nhân: Cho ly hôn giữa chị Vũ Thị H và anh Nguyễn Đăng D.

2. về nuôi con chung: Giao chị Vũ Thị H trực tiếp nuôi dưỡng cháu Nguyễn Băng Tâm, sinh ngày 27/01/2020; Anh Nguyễn Đăng D trực tiếp nuôi dưỡng cháu Đặng Quốc V, sinh ngày 13/9/2008. Chị H, anh D có quyền, nghĩa vụ thăm nom con chung mà không ai được cản trở theo quy định pháp luật.

3. Về án phí: Chị Vũ Thị H phải chịu 300.000đ (Ba trăm nghìn đồng) tiền án phí dân sự sơ thẩm. Xác nhận chị H đã nộp đủ số tiền 300.000đ tại biên lai thu số AA/2017/0004760 ngày 21/5/2020 tại Chi cục thi hành án dân sự huyện L, tỉnh Bắc Giang.

Đương sự có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được tống đạt hợp lệ bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

234
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2020/HNGĐ-ST ngày 25/08/2020 về ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:62/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Lục Ngạn - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 25/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về