Bản án 62/2020/HNGĐ-ST ngày 17/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TAM BÌNH, TỈNH VĨNH LONG

BẢN ÁN 62/2020/HNGĐ-ST NGÀY 17/07/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 17 tháng 7 năm 2020 tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tam Bình tiến hành xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 25/2020/TLST - HNGĐ ngày 03 tháng 02 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 16 tháng 6 năm 2020, Quyết định hoãn số: 44/2020/QĐST-HNGĐ ngày 01 tháng 7 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Chị Trần Thị N, sinh năm 1977 – có đơn đề nghị xét xử vắng mặt đề ngày 16/6/2020.

Địa chỉ: ấp A, xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long

- Bị đơn: Anh Nguyễn Văn C, sinh năm 1969 – vắng mặt Địa chỉ: ấp P, xã B, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. (chị N và anh C vắng mặt tại phiên tòa)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 03/02/2020 và các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án nguyên đơn chị Trần Thị N trình bày:

Chị N và anh C sống chung với nhau vào năm 1999, không tổ chức đám cưới, không đăng ký kết hôn; hôn nhân do quen biết, hai bên tự nguyện với nhau. Chị N và anh C sống chung hạnh phúc được khoảng 14 năm thì phát sinh mâu thuẫn trong cuộc sống do chị N và anh C thường xuyên bất đồng ý kiến với nhau, không tôn trọng nhau, anh C thường xuyên đi nhậu về đánh đập và chửi mắng chị N nhiều lần; anh C còn có người phụ nữ khác bên ngoài, nên chị N đã ly thân với anh C từ năm 2013 cho đến nay không trở về đoàn tụ. Chị N nhận thấy tình cảm của vợ chồng không còn nên yêu cầu ly hôn với anh C.

Về con chung: Chị N và anh C có một con chung tên là Nguyễn Thị Thùy L, sinh ngày 24 tháng 10 năm 2000, hiện nay đã trưởng thành, không bị nhược điểm về thể chất và tâm thần.

Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn là anh Nguyễn Văn C: Tòa án đã tống đạt hợp lệ các văn bản tố tụng theo quy định tại các Điều 196, 208 Bộ luật Tố tụng dân sự, nhưng anh Chương không có ý kiến gì bằng văn bản.

- Các tài liệu, chứng cứ của vụ án: Đã được Tòa án công khai tại Biên bản về kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ vào ngày 16 tháng 6 năm 2020.

- Các tình tiết, sự kiện mà các bên đương sự thống nhất, không thống nhất:

Tòa án đã thông báo về việc thụ lý vụ án và thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải cho anh C, nhưng anh C không có ý kiến gì bằng văn bản và qua hai lần tống đạt thông báo phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải thì anh C cũng không tham dự nên không xác định được sự thống nhất và không thống nhất của các đương sự trong vụ án.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Căn cứ vào chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa; trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện tài liệu, chứng cứ. Hội đồng xét xử nhận định:

[1]. Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết: Theo nội dung đơn khởi kiện của chị N yêu cầu ly hôn với anh C là tranh chấp về ly hôn được quy định tại khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn có nơi cư trú tại huyện Tam Bình, theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự thì vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tam Bình.

[2]. Về trình tự, thủ tục tố tụng: Tòa án nhân dân huyện Tam Bình tiến hành thụ lý, giải quyết vụ án theo đúng trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự. Các tài liệu chứng cứ do đương sự tự giao nộp, Tòa án không tiến hành thu thập chứng cứ, các bên đương sự là người đã thành niên, không bị nhược điểm về thể chất tâm thần nên vụ án không thuộc trường hợp Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp phải tham gia kiểm sát việc tuân thủ theo pháp luật tại phiên tòa, theo quy định tại khoản 2 Điều 21 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Tòa án đã tống đạt Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Quyết định hoãn phiên tòa hợp lệ cho anh C, nhưng anh C vẫn vắng mặt cả hai lần không vì sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan nên Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự tiến hành xét xử vắng mặt đối với anh C.

[2]. Về yêu cầu khởi kiện:

- Về hôn nhân: Xét chị N và anh C tự nguyện sống chung với nhau như vợ chồng vào năm 1999, nhưng không tổ chức đám cưới, không đăng ký kết hôn. Xét yêu cầu ly hôn của chị N với anh C là có cơ sở chấp nhận. Bởi lẽ, nguyên nhân mâu thuẫn giữa chị N và anh C là do chị N và anh C thường xuyên bất đồng ý kiến với nhau, không tôn trọng nhau, anh C thường xuyên đi nhậu về đánh đập và chửi mắng chị N nhiều lần; anh C còn có người phụ nữ khác bên ngoài. Do chị N và anh C không có đăng ký kết hôn theo đúng quy định pháp luật nên căn cứ vào khoản 2 Điều 53 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 thì quan hệ hôn nhân giữa chị N và anh C thuộc trường hợp pháp luật không công nhận. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị N và anh C.

Về con chung: Chị N và anh C có một con chung tên là Nguyễn Thị Thùy L, sinh ngày 24 tháng 10 năm 2000 đã trưởng thành, không bị nhược điểm về thể chất tâm thần nên chị N không yêu cầu giải quyết.

- Về tài sản chung, nghĩa vụ chung về tài sản: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

[3]. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị N phải chịu tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28 và điểm a khoản 1 Điều 35, khoản 2 Điều 227 và khoảng 1 Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự; khoản 1 Điều 14, 51, 53, 57 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2014; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu nộp quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn chị Trần Thị N.

1.1. Về hôn nhân: Không công nhận quan hệ vợ chồng giữa chị Trần Thị N với anh Nguyễn Văn C.

1.2. Về con chung: Chị N và anh C có một con chung tên là Nguyễn Thị Thùy L, sinh ngày 24 tháng 10 năm 2000 đã trưởng thành, không bị nhược điểm về thể chất và tâm thần nên chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

1.3. Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Chị N không yêu cầu Tòa án giải quyết.

2. Về án phí dân sự sơ thẩm: Chị N phải chịu 300.000 đồng tiền án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án hôn nhân, được khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng tiền tạm ứng án phí chị N đã nộp theo biên lai thu số No 0012372 ngày 03 tháng 02 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Tam Bình nên chị N không phải nộp thêm.

3. Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6, 7, 7a và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Về quyền kháng cáo: Chị N và anh C vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn kháng cáo là 15 ngày tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

199
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2020/HNGĐ-ST ngày 17/07/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:62/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tam Bình - Vĩnh Long
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 17/07/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về