Bản án 62/2020/DS-ST ngày 09/06/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CÀ MAU, TỈNH CÀ MAU

BẢN ÁN 62/2020/DS-ST NGÀY 09/06/2020 VỀ TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 6 năm 2020, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 40/2020/TLST-DS, ngày 10 tháng 02 năm 2020 về việc “Tranh chấp hợp đồng vay tài sản”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 285/2020/QĐXXST-DS ngày 05 tháng 5 năm 2020 giữa các đương sự:

- Nguyên đơn: Ngân hàng thương mại cổ phần T.

Địa chỉ: Số 266-268, đường N, phường 8, quận 3, thành phố Hồ Chí Minh.

Người đại diện theo pháp luật: Bà Nguyễn Đức Thạch D– Tổng Giám đốc.

Người đại diện theo ủy quyền: Bà Trương Yến N - Chức vụ: Chuyên viên quản lý nợ - Phòng kiểm soát rủi ro – chi nhánh Cà Mau (có mặt).

- Bị đơn: Bà Hồ Ngọc N, sinh năm 1970 (vắng mặt). Địa chỉ: Số 21, đường Đ, khóm 7, phường 5, thành phố M, tỉnh Cà Mau.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện của nguyên đơn, lời khai của người đại diện theo ủy quyền của nguyên đơn trình bày và được bổ sung tại phiên tòa thể hiện như sau:

Vào ngày 17/12/2009, bà Hồ Ngọc N đã ký giấy đề nghị cấp thẻ tín dụng kiêm hợp đồng tại Ngân hàng thương mại cổ phần T, chi nhánh Cà Mau (gọi tắt là ngân hàng) để được cấp thẻ tín dụng. Căn cứ vào thu nhập của bà N, Ngân hàng đã cấp thẻ tín dụng với hạn mức giao dịch là 10.000.000 đồng, với mục đích là tiêu dùng cá nhân. Bà N đã thực hiện các giao dịch với tổng số tiền là 9.450.000 đồng.

Trong quá trình sử dụng thẻ, từ ngày kích hoạt thẻ đến nay bà N đã thanh toán cho Ngân hàng số tiền 10.567.725 đồng bao gồm vốn và lãi của các lần giao dịch, hiện tính đến ngày 28/02/2020 bà N còn nợ lại Ngân hàng số tiền nợ gốc là 3.724.215 đồng, lãi quá hạn 11.023.012 đồng. Tổng cộng bà N còn nợ lại Ngân hàng số tiền 14.747.227 đồng. Ngân hàng nhiều lần nhắc nhở nhưng bà N vẫn không thanh toán. Do bà Hồ Ngọc N vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên ngày 16/8/2012 Ngân hàng đã chấm dứt quyền sử dụng thẻ và chuyển toàn bộ dư nợ còn thiếu sang nợ quá hạn. Tính đến thời điểm xét xử ngày 09/6/2020, bà N còn nợ lại ngân hàng số tiền là 15.151.631 đồng, trong đó nợ gốc là 3.724.215 đồng, lãi trong hạn là 7.618.277 đồng, lãi quá hạn là 3.809.139 đồng. Nay ngân hàng yêu cầu bà N phải có trách nhiệm thanh toán cho Ngân hàng toàn bộ số nợ trên và lãi phát sinh từ ngày 09/6/2020 theo lãi suất quy định tại hợp đồng cho đến khi thanh toán dứt nợ.

Ngân hàng xác định giữa Ngân hàng và bà Hồ Ngọc N không có ký hợp đồng thế chấp tài sản, không có bên thứ ba bảo lãnh.

Đối với bà Hồ Ngọc N trong quá trình giải quyết vụ án, Tòa án đã tống đạt và niêm yết hợp lệ thông báo thụ lý vụ án, các thông báo về phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và triệu tập hợp lệ song vẫn vắng mặt không rõ lý do.

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa các đương sự không nộp thêm tài liệu, chứng cứ.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết của Tòa án: Xét đơn khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần T thuộc lĩnh vực tranh chấp về hợp đồng vay dưới hình thức cấp thẻ tín dụng; bà Hồ Ngọc N là bị đơn, có nơi cư trú tại số 21, đường Đ, khóm 7, phường 5, thành phố M, tỉnh Cà Mau nên vụ án thuộc thẩm quyền của Toà án nhân dân thành phố Cà Mau theo quy định tại Điều 26, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39 của Bộ luật tố tụng dân sự.

[2] Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án bà Hồ Ngọc N mặc dù đã được Tòa án tống đạt và niêm yết hợp lệ để tham gia phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ, hòa giải và tham gia phiên tòa xét xử nhiều lần theo quy định nhưng vẫn vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt bà N theo quy định tại Điều 207 và Điều 227, 228 Bộ luật tố tụng dân sự.

[3] Về nội dung của vụ án: Tranh chấp giữa các đương sự được xác định là tranh chấp hợp đồng vay tài sản. Hợp đồng vay được thể hiện dưới hình thức cấp thẻ tín dụng theo giấy đề nghị của bà Hồ Ngọc N đề ngày 17/12/2009 để cấp thẻ tín dụng với hạn mức 10.000.000 đồng. Đề nghị cấp thẻ có chữ viết và chữ ký của bà Hồ Ngọc N kèm theo sổ hộ khẩu và giấy chứng minh nhân dân được xác nhận của người quản lý nơi làm việc và tại đề nghị cấp thẻ tín dụng bà N đã cam kết thanh toán vốn và mức lãi xuất theo quy định mà Ngân hàng đưa ra. Xét thấy, trong quá trình sử dụng thẻ bà N đã thực hiện giao dịch đối với các thẻ trên và hiện nay tính đến ngày 09/6/2020 dư nợ quá hạn là 15.151.631đồng trong đó bao gồm vốn gốc và lãi suất. Ngân hàng đã nhiều lần liên hệ để yêu cầu bà N thanh toán nhưng bà N vẫn không thanh toán.

Trong quá trình giải quyết vụ án phía bị đơn bà Hồ Ngọc N đã được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng không đến Tòa án cũng không gửi văn bản nêu ý kiến để bảo vệ quyền là lợi ích hợp pháp của mình, mặc khác tại hồ sơ thể hiện tất cả các giao dịch của hai bên đều do các bên tự nguyện xác lập và trong quá trình các khoản vay quá hạn ngân hàng cũng đã thông báo cho bà N nhiều lần nhưng bà N vẫn không thực hiện nghĩa vụ thanh toán đối với số tiền trên. Do đó, Hội đồng xét xử có cơ sở chấp nhận yêu cầu của Ngân hàng về việc yêu cầu bà Hồ Ngọc N thanh toán các khoản vay trên cho Ngân hàng.

 [4] Tại phiên tòa Ngân hàng xác định giữa Ngân hàng và bà Hồ Ngọc N không xác lập hợp đồng thế chấp tài sản, không có bên thứ ba bảo lãnh khoản nợ vay và không đặt ra yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[5] Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: Bà Hồ Ngọc N nộp theo quy định. Ngân hàng không phải nộp.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

 Căn cứ các Điều 26, 35, 39, 147, 207, 227, 228, 271, 273 của Bộ luật tố tụng dân sự; các Điều 463, 466, 468 của Bộ luật Dân sự năm 2015; Điều 91 Luật các tổ chức tín dụng; khoản 2 Điều 26 của Nghị Quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về án phí và lệ phí Tòa án, Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Ngân hàng thương mại cổ phần T Buộc bà Hồ Ngọc N thanh toán số nợ cho Ngân hàng Ngân hàng thương mại cổ phần T tính đến ngày xét xử 09/6/2020 với tổng số tiền 15.151.631đồng (trong đó: trong đó nợ gốc là 3.724.215 đồng, lãi trong hạn là 7.618.277 đồng, lãi quá hạn là 3.809.139 đồng và tiếp tục thanh toán khoản lãi phát sinh từ ngày 10/6/2020 cho đến khi dứt nợ vay theo lãi suất quy định tại hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ.

Kể từ ngày tiếp theo của ngày xét xử sơ thẩm bà N còn phải tiếp tục chịu khoản tiền lãi quá hạn của số tiền nợ gốc chưa thanh toán, theo mức lãi suất mà các bên thỏa thuận trong hợp đồng cho đến khi thanh toán xong khoản nợ gốc này. Trường hợp, hợp đồng tín dụng các bên thỏa thuận về việc điều chỉnh lãi suất cho vay theo từng thời kỳ của Ngân hàng cho vay thì lãi suất mà khách hàng vay phải tiếp tục thanh toán cho Ngân hàng cho vay theo quyết định của Tòa án cũng sẽ được điều chỉnh cho phù hợp với sự điều chỉnh lãi suất của Ngân hàng cho vay.

Án phí dân sự sơ thẩm có giá ngạch: bà Hồ Ngọc N phải nộp số tiền là 757.582 đồng (chưa nộp). Ngân hàng thương mại cổ phần T không phải nộp án phí.

Vào ngày 10/02/2020, Ngân hàng đã dự nộp 353.000đ theo biên lai số 0001395 Ngân hàng được nhận lại khi bản án có hiệu lực.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điêù 6,7,7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Ngân hàng thương mại cổ phần T có mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bà Hồ Ngọc N vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2020/DS-ST ngày 09/06/2020 về tranh chấp hợp đồng vay tài sản

Số hiệu:62/2020/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cà Mau - Cà Mau
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 09/06/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về