Bản án 62/2019/HSST ngày 23/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TC, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 62/2019/HSST NGÀY 23/05/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 23 tháng 5 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện TC mở phiên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 63/2019/TLST-HS ngày 09 tháng 5 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 65/2019/QĐXXST-HS ngày 10 tháng 5 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Lường Văn T; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1966 tại huyện TC, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản P, xã ME, huyện TC, tỉnh Sơn La; trình độ học vấn: 07/10; nghề nghiệp: Trồng trọt; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lường Văn T (đã chết) và bà Lường Thị C, sinh năm: 1943; Bị cáo có vợ: Lường Thị Q, sinh năm: 1965 và 02 con, lớn nhất 34 tuổi, nhỏ nhất 18 tuổi; tiền án: Không có; tiền sự: Không có. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày: 27-02-2019; Có mặt tại phiên tòa.

2. Lường Văn Th; tên gọi khác: Không; sinh năm: 1976 tại huyện TC, tỉnh Sơn La; nơi cư trú: Bản P, xã ME, huyện TC, tỉnh Sơn La; trình độ học vấn: 06/10; nghề nghiệp: Trồng trọt; dân tộc: Thái; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Con ông Lường Văn T (đã chết) và bà Lường Thị C, sinh năm: 1943; Bị cáo có vợ: Lường Thị C, sinh năm: 1982 và 02 con, lớn nhất 21 tuổi, nhỏ nhất 19 tuổi; tiền án: Năm 2014 bị Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xử phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy (đã được xóa án tích); tiền sự: có 01 tiền sự. Ngày18-02-2019 bị Công an huyện TC xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy dưới mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày: 27-02-2019; Có mặt tại phiên tòa.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: chị Lường Thị C, sinh năm 1982. Địa chỉ: Bản P, xã ME, huyện TC, tỉnh Sơn La; Có mặt

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 13 giờ ngày 27-02-2019 khi Lường Văn Th đang ở nhà một mình tại bản P - xã ME thì có Lường Văn T đi bộ đến nhà rủ Tước đi tìm mua ma túy về cùng sử dụng, Th đồng ý. Sau đó T đưa cho Th số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) để cả hai cùng đi tìm mua ma túy, Th cầm tiền Tẩn đưa rồi điều khiển xe máy mang BKS: 26 M1-034.02 của Th chở T đi xuống khu vực xã TM – TC để tìm mua ma túy. Khi cả hai đi đến bản LC – xã TM, Tước dừng xe lại bảo T đứng đợi, còn Th đi bộ một mình vào trong một ngõ bản LC thì gặp và hỏi mua được của một người phụ nữ dân tộc Thái (Th không biết tên và địa chỉ cư trú) một gói Heroine gói bằng nilon màu trắng với giá 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng). Sau khi mua được Heroine, Th cất gói Heroine vào bên trong mũ bảo hiểm Th đang đội rồi đi bộ ra chỗ T đang đứng đợi và nói với T là đã mua được ma túy rồi đi về thôi. Sau đó, Th điều khiển xe máy chở T đi về bản P - xã ME để tìm nơi sử dụng ma túy. Khi Th và T đi về đến khu vực bản NL - ME - huyện TC thì bị tổ công tác Ban Công an xã ME, huyện TC yêu cầu kiểm tra ma túy, quá trình kiểm tra Tổ công tác đã phát hiện gói ma túy mà Th đang cất giấu và thu giữ tang vật như đã nêu trên, Tổ công tác đã đưa T và Th về UBND xã ME, huyện TC lập biên bản bắt người có hành vi phạm tội quả tang. Sau đó Lường Văn T và Lường Văn Th cùng tang vật đã được dẫn giải về Công an huyện TC xử lý theo quy định của pháp luật. ( BL: 42 - 73 HS).

Vật chứng thu giữ gồm: (01) một gói nilon màu trắng bên trong chứa chất bột cục màu trắng, nghi là Heroine (Theo Th và T khai là Heroine); (01) Một chiếc xe máy loại xe Win 100, nhãn hiệu HONDA, màu sơn đen, mang BKS: 26 M1- 034.02, số khung 165992, số máy: 2265508, xe đã qua sử dụng cũ. (BL 01 - 02 HS ).

Hồi 19 giờ 00 phút cùng ngày, tại Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Sơn La đã tiến hành bóc mở niêm phong cân tịnh số bột cục màu trắng thu giữ của Lường Văn T và Lường Văn Th. Cân tịnh được khối lượng 1,18 g ( Một phẩy mười tám gam), trích rút: 0,10 gam ký hiệu T1 gửi giám định chất và loại ma túy, còn lại: 1,08 gam ký hiệu T2 nhập kho vật chứng.

Tại Kết luận giám định số: 514 /KL ngày 01-3-2019 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Sơn La, kết luận: “Mẫu gửi giám định ký hiệu T1 là ma túy; loại Heroine, tổng khối lượng của mẫu gửi giám định là 0,10 gam. Tổng khối lượng ma túy thu giữ là 1,18 gam loại Heroine. Mẫu gửi giám định đã sử dụng hết trong quá trình giám định. ( BL: 36 - 39 HS).

Tại phiên tòa, lời khai, lời trình bày ý kiến của các bị cáo phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu khác trong hồ sơ vụ án như: biên bản hỏi cung bị can; biên bản bắt người phạm tội quả tang; biên bản thu giữ, niêm phong, mở niêm phong vật chứng của vụ án để lấy mẫu giám định; kết luận giám định.

Tại bản cáo trạng số: 62/CT-VKS ngày 09-5-2019 của Viện kiểm sát nhân dân huyện TC, tỉnh Sơn La đề nghị truy tố các bị can Lường Văn T; Lường Văn Th về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên toà, đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TC giữ quyền công tố luận tội, giữ nguyên quyết định truy tố đối với Lường Văn T; Lường Văn Th về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố các bị cáo Lường Văn T; Lường Văn Th phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy.

Áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 Bộ luật hình sự năm 2015:

Đề nghị xử phạt bị cáo Lường Văn T mức án từ 24 đến 30 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 27-02-2019 ( là ngày bắt tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo ).

Đề nghị xử phạt bị cáo Lường Văn Th mức án từ 30 đến 36 tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù được tính từ ngày 27-02-2019 ( là ngày bắt tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo ).

Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền được quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS năm 2015 đối với các bị cáo.

Áp dụng Điều 47 BLHS và Điều 106 BLTTHS năm 2015 tuyên:

Tịch thu tiêu hủy: Chất bột cục màu trắng là ma túy, loại Heroine có khối lượng 1,08 gam (Một phẩy không tám gam) ký hiệu T2 + 01 mảnh nilon màu trắng

+ 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở niêm phong. Các vật chứng trên được niêm phong trong cùng một phong bì thư có viền xanh đỏ.

Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lường Thị C: (01) một chiếc xe máy loại xe Win 100, nhãn hiệu HONDA, màu sơn đen, mang BKS: 26 M1- 034.02, số khung 165992, số máy: 2265508, xe đã qua sử dụng cũ.

Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn toàn bộ án phí HSST cho các bị cáo Lường Văn T, Lường Văn Th.

Lời nói sau cùng của các bị cáo Lường Văn T; Lường Văn Th: Nhất trí với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát đề nghị truy tố, xét xử bị cáo về tội Tàng trữ trái phép chất ma túy. Nay các bị cáo đã thực sự nhận ra lỗi lầm, các bị cáo rất ân hận, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình, các bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo để tạo cơ hội cho các bị cáo sớm trở về hòa nhập với gia đình và xã hội, các bị cáo xin được miễn hình phạt bổ sung và được miễn án phí hình sự sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Xét hành vi Tàng trữ trái phép 1,18 gam ma túy, loại chất Heroine của các bị cáo Lường Văn T; Lường Văn Th vào ngày 27-02-2019 nhằm mục đích sử dụng cho bản thân là vi phạm pháp luật. Bởi các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự để nhận thức được hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là hành vi nguy hiểm cho xã hội, bị pháp luật nghiêm cấm nhưng vẫn thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của các bị cáo đã phạm vào tội Tàng trữ trái phép chất ma tuý theo quy định tại điểm c, khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 như quan điểm truy tố và luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân huyện TC, tỉnh Sơn La.

Tại điểm c, khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 quy định:

“1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

………………………….

c) Hêrôine, côcaine, Methamphetamine, Amphetamine, MDMA hoạc XLR- 11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam;

……………………………

5. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 500.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

[2] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội bởi: Các bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vẫn phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma tuý và là nguyên nhân làm gia tăng những tệ nạn xã hội và tội phạm hình sự, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc gia. Do đó cần áp dụng điểm c, khoản 1 Điều 249 BLHS 2015 có mức hình phạt từ 01 năm đến 05 năm đối với các bị cáo Lường Văn T; Lường Văn Th.

[3] Xét nhân thân bị cáo Lường Văn T là người chưa có tiền án; tiền sự. Bị cáo Lường Văn Th có 01 tiền án Năm 2014 bị Tòa án nhân dân tỉnh Sơn La xử phạt 07 năm tù về tội Mua bán trái phép chất ma túy tuy đã được xóa án tích, nhưng vẫn thuộc trường hợp người có nhân thân xấu; tiền sự có 01 tiền sự Ngày 18-02-2019 bị Công an huyện TC xử phạt vi phạm hành chính số tiền 1.500.000đ (Một triệu năm trăm nghìn đồng) về hành vi Tàng trữ trái phép chất ma túy dưới mức truy cứu trách nhiệm hình sự. Các bị cáo là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự. Bị cáo biết rõ tác hại của ma túy nhưng vẫn cố tình phạm tội nên cần có mức án tương xứng với hành vi phạm tội của các bị cáo mới đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật trong việc đấu tranh với các tệ nạn ma túy. Cần cách ly các bị cáo ra ngoài xã hội một thời gian mới đủ điều kiện cải tạo, giáo dục các bị cáo để trở thành người công dân tốt, làm ăn lương thiện, có ích cho xã hội.

[4] Xét tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa ngày hôm nay các bị cáo đã ăn năn hối cải, thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội của mình, nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015. Ngoài ra các bị cáo còn có bố đẻ là Lường Văn T được tặng thưởng huân chương kháng chiến hạng nhì và các bị cáo sinh sống tại vùng đặc biệt khó khăn củ huyện TC nên khả năng nhận thức pháp luật của các bị cáo có phần còn hạn chế nên cần áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 đối với bị cáo.

[5] Xét tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào quy định tại Điều 52 Bộ luật hình sự 2015.

[6] Xét vị trí vai trò của các đồng phạm thấy: Các bị cáo phạm tội thuộc trường hợp đồng phạm giản đơn bởi các bị cáo đều là người trực tiếp thực hiện hành vi phạm tội. Tuy nhiên bị cáo Lường Văn T giữ vai trò chủ mưu, chủ động đến nhà rủ bị cáo Th và là người trực tiếp đưa số tiền 500.000đ (Năm trăm nghìn đồng) cho bị cáo Th để các bị cáo cùng thực hiện hành vi phạm tội, nên cần có mức hình phạt nghiêm khắc hơn đối với bị cáo T. Do đó cần áp dụng Điều 58 BLHS năm 2015 để cá thể hóa hình phạt đối với các bị cáo.

[7] Đối với hình phạt bổ sung được quy định tại khoản 5 Điều 249 BLHS. Xét thấy các bị cáo không có tài sản, ngoài ra các bị cáo còn thuộc hộ diện hộ nghèo của xã, không có khả năng thi hành nên Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[8] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện TC Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân huyện TC, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[9] Về vật chứng vụ án:

+ Đối với chất bột cục màu trắng là ma túy, loại Heroine có khối lượng 1,08 gam (Một phẩy không tám gam) ký hiệu T2 + 01 mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở niêm phong. Các vật chứng trên được niêm phong trong cùng một phong bì thư có viền xanh đỏ là vật nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành cần tuyên tịch thu tiêu hủy.

+ Đối với (01) một chiếc xe máy loại xe Win 100, nhãn hiệu HONDA, màu sơn đen, mang BKS: 26 M1- 034.02, số khung 165992, số máy: 2265508, xe đã qua sử dụng cũ là phương tiện các bị cáo dùng vào việc phạm tội xét thấy là tài sản hợp pháp của vợ chồng, việc bị cáo Th sử dụng chiếc xe vào việc phạm tội chị C không biết nên cần trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lường Thị C.

[10] Đối với người phụ nữ dân tộc Thái tại Bản LC – xã TM mà Lường Văn Th khai đã bán cho Tước lượng ma túy, loại Heroine với giá 500.000đ vào ngày 27-2-2019, nhưng do Lường Văn Th không biết họ tên và địa chỉ cụ thể người phụ nữ này ở đâu do đó không có căn cứ để điều tra xử lý.

[11] Các bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ các bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

[12] Về án phí: Áp dụng Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn toàn bộ án phí HSST cho các bị cáo.

[13] Bị cáo Lường Văn T; Lường Văn Th có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng có phần trực tiếp liên quan đến quyền lợi của mình trong thời hạn15 ngày theo quy định tại các Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Về tội danh và hình phạt

Căn cứ điểm c, khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 58 BLHS 2015:

Tuyên bố các bị cáo Lường Văn T; Lường Văn Th phạm tội: Tàng trữ trái phép chất ma túy;

Xử phạt bị cáo Lường Văn T 24 (Hai mươi tư) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 27-2-2019 (là ngày bắt tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo ).

Xử phạt bị cáo Lường Văn Th 30 (Ba mươi) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt được tính từ ngày 27-2-2019 (là ngày bắt tạm giữ, tạm giam đối với bị cáo ).

Các bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục giam giữ các bị cáo trong hạn 45 ngày, kể từ ngày tuyên án theo quy định tại khoản 1, 3 Điều 329 Bộ luật tố tụng hình sự 2015.

2. Về vật chứng: Căn cứ Điều 47 BLHS và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015 tuyên:

Tịch thu tiêu hủy: Đối với chất bột cục màu trắng là ma túy, loại Heroine có khối lượng 1,08 gam (Một phẩy không tám gam) ký hiệu T2 + 01 mảnh nilon màu trắng + 01 vỏ phong bì niêm phong vật chứng ban đầu đã bóc mở niêm phong.

Trả lại cho người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chị Lường Thị C: (01) một chiếc xe máy loại xe Win 100, nhãn hiệu HONDA, màu sơn đen, mang BKS: 26 M1-034.02, số khung 165992, số máy: 2265508, xe đã qua sử dụng cũ.

3. Án phí:

Căn cứ Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, điểm đ khoản 1 Điều 12 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án: Miễn toàn bộ án phí HSST cho các bị cáo Lường Văn T; Lường Văn Th.

4. Quyền kháng cáo

Căn cứ Điều 331, 333 BLTTHS năm 2015: Các bị cáo Lường Văn T; Lường Văn Th có quyền kháng cáo bản án, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có quyền kháng có phần trực tiếp liên quan đến quyền lợi của mình trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

230
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2019/HSST ngày 23/05/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:62/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Thuận Châu - Sơn La
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/05/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về