Bản án 62/2019/HSST ngày 05/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THANH HÓA - TỈNH THANH HOÁ

BẢN ÁN 62/2019/HSST NGÀY 05/03/2019 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 05 tháng 3 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố Thanh Hóa, tỉnh Thanh Hóa xét xử công khai sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 71/TLST-HS, ngày 23 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2019/QĐXXST-HS ngày 12 tháng 02 năm 2019 đối với các bị cáo:

1. Phạm Ngọc L, Sinh năm 1997.

Nơi ĐKHKTT và Nơi ở hiện nay: Phố T, phường Ph, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 10/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Phạm Văn N, sinh năm 1975 và bà Trịnh Thị H, sinh năm 1975; Có vợ là Trịnh Nhật L, có 01 con, sinh năm 2013; Tiền án: Ngày 21/10/2015 bị Tòa án nhân dân thành phốH, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 24 tháng tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/6/2017; Tiền sự: Ngày 12/12/2017 bị Công an thành phố H, tỉnh Thanh Hóa xử phạt hành chính về hành vi Đánh nhau.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 23/11/2018 đến ngày 29/11/2018 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Thanh Hóa; Có mặt.

2. Trần Văn B, Sinh năm 1969.

Nơi ĐKHKTT và Nơi ở hiện nay: Phô Đ, phường C, thành phố H, tỉnh Thanh Hóa; Nghề nghiệp: Lao động tự do; trình độ văn hóa: Lớp 12/12; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông Trần Nhật D (Đã chết) và bà Trương Thị Nh (Đã chết); Có vợ là Trần Thị H, có 01 con, sinh năm 1995; Tiền án, Tiền sự: Không; Nhân thân: Ngày 21/6/2013 bị Tòa án nhân dân thành phố H, tỉnh Thanh Hóa xử phạt 24 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, chấp hành xong hình phạt tù ngày 01/11/2014.

Bị bắt tạm giữ từ ngày 23/11/2018 đến ngày 29/11/2018 chuyển tạm giam. Hiện đang bị tạm giam tại Trại tạm giam công an tỉnh Thanh Hóa; Có mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 12h15 phút ngày 23/11/2018, tại khu vực gầm Cầu V, phường S, thành phố H, Tổ công tác Đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an thành phố H đang làm nhiệm vụ đã phát hiện Trần Văn B có biểu hiện nghi vấn liên quan đến ma túy. Tổ công tác tiến hành kiểm tra thì Trần Văn B đã tự giác giao nộp cho tổ công tác một gói nilong màu trắng KT (1x1)cm, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng; 01 gói nilong màu xanh KT (0,5x1,5)cm, bên trong chứa chất bột màu trắng. B khai đây là ma túy, mua để sử dụng. Tổ công tác đã lập biên bản phạm tội quả tang và thu giữ tang vật. Ngoài ra còn thu giữ của bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Philis màu đen đã cũ.

Tại kết luận giám định số 42/MT-PC09 ngày 26/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa đã kết luận: 01 gói nilon bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng của phong bì niêm phong ký hiệu M1 gửi giám định có tổng trọng lượng 0,027g, là ma túy, loại Methamphetamine; 01 gói nilon bên trong chứa chất bột màu trắng của phong bì niêm phong ký hiệu M2 gửi giám định có tổng trọng lượng 0,154g, là ma túy, loại Heroine.

Quá trình điều tra Trần Văn B khai nhận: Khoảng 11h ngày 23/11/2018 Bảy đang ở phòng trọ tại phường S, thành phố H thì có một nam thanh niên không biết tên tuổi, địa chỉ đến nhờ B đi mua hộ 300.000đ ma túy đá để sử dụng. B đồng ý và điện thoại cho Phạm Ngọc L hỏi mua 01 gói ma túy đá giá 200.000đ và 01 gói heroine giá 200.000đ và hẹn ra hông trường lái để giao dịch mua bán. B ra điểm hẹn, mua bán ma túy xong, đang cầm trên tay thì bị Công an thành phố H phát hiện, bắt quả tang.

Khoảng 13h ngày 23/11/2018, tại khu vực ngõ 27 đường T, phường S, H, Tổ công tác Đội CSĐT tội phạm về ma túy Công an thành phố H đang làm nhiệm vụ đã phát hiện Phạm Ngọc L có biểu hiện nghi vấn, tổ công tác tiến hành kiểm tra và đã thu giữ của Phạm Ngọc L 24 gói ma túy. L khai trong đó có 01 gói ma túy đá và 23 gói heroine tàng trữ nhằm mục đích bán kiếm lời. Ngoài ra L còn tự giác giao nộp cho CQĐT 400.000đ tiền bán ma túy cho B lúc 11h cùng ngày. Tổ công tác đã lập biên bản phạm tội quả tang và thu giữ tang vật. Ngoài ra còn thu giữ của bị cáo 01 điện thoại di động hiệu Nokia màu đen đã cũ và 01 túi đeo màu đen đựng số ma túy trên.

Qua điều tra, Phạm Ngọc L khai nhận: Do không có việc làm nên L nảy sinh ý định mua ma túy về bán kiếm lời. Ngày 21/11/2018, L đi đến khu vực cầu Ng phường Đ mua của một người đàn ông không quen biết tên Đ 01 gói ma túy đá giá 300.000đ và 01 gói heroine giá 1.750.000đ. Sau đó L mang về nhà chia gói ma túy đá ra làm 02 gói nhỏ và chia gói heroine làm 24 gói nhỏ để bán kiếm lời. Khoảng 12h ngày 23/11/2018, L đã bán cho B 01 gói ma túy đá và 01 gói heroine với giá 400.000đ. Số ma túy còn lại L mang theo bên người đi ra khu vực ngõ 27 đường P để bán thì bị bắt quả tang.

Tại kết luận giám định số 43/MT-PC09 ngày 26/11/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa đã kết luận: 01 gói nilon bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định có tổng trọng lượng 0,142g, là ma túy, loại Methamphetamine; 01 gói nilon bên trong có 14 gói nilong màu xanh chứa chất bột màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định có tổng trọng lượng 1,376g, là ma túy, loại Heroine; 01 gói nilon bên trong có 09 gói nilong màu đen chứa chất bột màu trắng của phong bì niêm phong gửi giám định có tổng trọng lượng 0,368g, là ma túy, loại Heroine.

Trần Văn B khai đây là lần thứ hai mua ma túy của Phạm Ngọc Lý lần thứ nhất mua 100.000đ heroine vào ngày 21/11/2018. Qua đối chất, L không thừa nhận đã bán ma túy cho B vào ngày 21/11/2018, do đó không có cơ sở để xem xét.

Đối với người thanh niên nhờ B mua hộ ma túy. B khai không biết tên, tuổi, địa chỉ nên Cơ quan điều tra không có căn cứ để xác minh, xử lý.

Đối với người đàn ông tên Đ bán ma túy cho L, L khai không biết địa chỉ, Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không có căn cứ để xác định.

Tại cáo trạng số 60/CT-VKS, ngày 22/01/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Thanh Hóa truy tố Phạm Ngọc L về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015 và Trần Văn B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa hôm nay

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, tỉnh Thanh Hóa giữ nguyên Quyết định truy tố như cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử: Áp dụng khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; Tuyên bố bị cáo Phạm Ngọc L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy, đề nghị xử phạt bị cáo Phạm Ngọc L mức án từ 03 năm 06 tháng đến 04 năm tù.

Áp dụng điểm i khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015; Tuyên bố bị cáo Trần Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy, đề nghị xử phạt bị cáo Trần Văn B mức án từ 15 tháng đến 18 tháng tù và đề nghị xử lý vật chứng.

Cac bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và xin được hưởng sự khoan hồng với mức hình phạt thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố H, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố H, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa hôm nay, bị cáo Phạm Ngọc L và Trần Văn B thừa nhận: Khoảng 13h ngày 23/11/2018, tại ngõ 27 đường T, phường S, thành phố H; Tổ công tác điều tra tội phạm về ma túy Công an thành phố H phát hiện, bắt quả tang Phạm Ngọc L đang tàng trữ trái phép chất ma túy để bán kiếm lời. Theo kết luận giám định tang vật thu giữ của L là ma túy trọng lượng 0,142g, loại Methamphetamin và 1,744g loại Heroine. Ngoài ra, vào khoảng 12h cùng ngày, Phạm Ngọc L đã có hành vi bán cho Trần Văn B 0,027g ma túy loại Methamphetamin và 0,154g loại Heroine. B tàng trữ số ma túy trên nhằm mục đích sử dụng.

Lời nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với nội dung bản cáo trạng và các tài liệu chứng cứ đã được thu thập có trong hồ sơ vụ án. Quyết định truy tố và lời luận tội của Viện kiểm sát tại phiên toà là có căn cứ. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận Phạm Ngọc L phạm tội“Mua bán trái phép chất ma tuý” theo quy định tại khoản 1 Điều 251 Bộ luật hình sự năm 2015và Trần Văn B phạm tội“Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo quy định tại điểm i khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Về trách nhiệm hình sự đối với bị cáo: Các bị cáo biết rõ ma túy là một trong những tệ nạn nguy hiểm cho xã hội, gây ra nhiều hậu quả nghiêm trọng đến đời sống của nhiều gia đình. Ma túy đã làm kiệt quệ về sức khỏe và tài sản, là nguyên nhân làm gia tăng tội phạm, gây lan truyền căn bệnh HIV/ADS. Bị cáo L vì hám lời nên bán ma túy cho các con nghiện. Bị cáo Bảy là người nghiện ma túy nên đã tàng trữ ma túy để sử dụng. Hành vi của các bị cáo đã xâm phạm đến chế độ độc quyền quản lý về các chất gây nghiện của Nhà nước và còn gây mất trật tự trị an xã hội.

[4] Xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo:

Tình tiết tăng nặng: Bị cáo L có 01 tiền án, chưa được xóa án tích nên phải chịu tình tiết tăng nặng là tái phạm quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự. Bị cáo B không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nhưng có nhân thân xấu, đã từng bị xét xử vệ tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra truy tố và tại phiên toà hôm nay các bị cáo đã thành khẩn khai báo về hành vi phạm tội, nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ chung quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015.

Vi tính chất vụ án nghiêm trọng, với nhân thân của các bị cáo, xét cần thiết phải cách ly các bị cáo ra khỏi đời sống xã hội một thời gian như vậy mới đủ điều kiện cải tạo bị cáo thành công dân có ích cho xã hội.

Do các bị cáo không có việc làm và thu nhập ổn định nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt tiền.

[5] Về xử lý vật chứng: Đối với số ma túy còn lại sau giám định là mặt hàng Nhà nước cấm lưu hành nên tịch thu tiêu hủy. Đối với 01 túi xách màu đen, bị cáo L dùng để đựng ma túy là công cụ phạm tội, không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với số tiền 400.000đ là tiền mua bán ma túy nên tịch thu sung quỹ nhà nước.

Đối với 01 điện thoại di động Nokia màu xanh thu giữ của Phạm Ngọc L và 01 điện thoại di động hiệu Philis màu đen thu giữ của Trần Văn B, là công cụ các bị cáo liên lạc mua bán ma túy nên tịch thu sung quỹ Nhà nước theo quy định tại khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự.

[6] Về án phí: Các bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật . Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố:

-Bị cáo Phạm Ngọc L phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

- Bị cáo Trần Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Căn cứ vào: khoản 1 Điều 251; Điểm s khoản 1 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Phạm Ngọc L 03 (Ba) năm 06 (Sáu) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/11/2018.

n cứ vào: Điểm i khoản 1 Điều 249; Điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015.

Xử phạt: Bị cáo Trần Văn B 18 (Mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 23/11/2018.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng khoản 2 Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015: Tịch thu tiêu huỷ 02 phong bì ma túy niêm phong của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa, được đóng dấu của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Thanh Hóa. Bên trong chứa số ma túy còn lại sau giám định.

Tịch thu tiêu hủy 01 túi xách màu đen, loại nhỏ đã qua sử dụng.

Tch thu, sung quỹ Nhà nước số tiền 400.000đ là tiền các bị cáo mua bán ma túy.

Tch thu, sung quỹ Nhà nước 01 điện thoại di động Nokia màu xanh, model 1280 và 01 điện thoại di động Philips màu đen. (Cả 02 điện thoại đã cũ, không kiểm tra chất lượng bên trong).

Hin số tang vật và tài sản đang được lưu giữ tại Chi cục thi hành án dân sự thành phố Thanh Hóa theo biên bản giao nhận vật chứng số 83/THA ngày 22/01/2019 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố H với Công an thành phố H.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; khoản 1 Điều 21; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH14.

c bị cáo Phạm Ngọc L và Trần Văn B, mỗi bị cáo phải nộp 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Về quyền kháng cáo: Áp dụng Điều 331, 333 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015, bị cáo có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2019/HSST ngày 05/03/2019 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:62/2019/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thanh Hóa - Thanh Hoá
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 05/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về