Bản án 62/2019/HNGĐ-ST ngày 23/10/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN TIỀN HẢI - TỈNH THÁI BÌNH

BẢN ÁN 62/2019/HNGĐ-ST NGÀY 23/10/2019 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH

Ngày 23 tháng 10 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình xét xử sơ thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số: 174/2019/TLST-HNGĐ ngày 10/7/2019 về việc: “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 75/2019/QĐXX-ST ngày 04/10/2019 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Vũ Xuân H, sinh năm 1989.

Nơi ĐKHKTT: Thôn H, xã Ph, huyện H, tỉnh Thái Bình.

2. Bị đơn: Chị Nguyễn Thị P, sinh năm 1991.

Nơi ĐKHKTT: Thôn H, xã Ph, huyện H, tỉnh Thái Bình.

Chỗ ở hiện nay: Thôn c, xã T, huyện T, tỉnh Hải Dương.

( AnhH, chị P vắng mặt - có đơn xin xét xử vắng mặt )

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn xin ly hôn và quá trình tố tụng tại Tòa án, nguyên đơn là anh Vũ Xuân H trình bày: Anh và chị Nguyễn Thị P kết hôn với nhau trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Ph, huyện H, tỉnh Thái Bình ngày 29/10/2012. Sau khi kết hôn, vợ chồng chung sống hạnh phúc được 04 năm thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, bất đồng về quan điểm sống. Đến tháng 9/2017, trong lúc anh đi làm không có ở nhà chị P đã tự ý bế con về nhà bố mẹ đẻ ở huyện T, tỉnh Hải Dương sinh sống. Khi chị P đi lúc đó chị P đang mang thai đứa con thứ ba. Mặc dù anh đã nhiều lần gọi điện thoại và sang Hải Dương tìm chị P về để vợ chồng đoàn tụ, nhưng chị P không về và cũng từ thời gian đó cho đến nay, anh và chị P sống ly thân. Nay xác định tình cảm vợ chồng không còn, anh H đề nghị Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải giải quyết cho anh được ly hôn với chị P.

Về con chung: Anh và chị P có ba con chung là Vũ Hoàng Ph1, sinh ngày 15/10/2013, Vũ Thị Kim A, sinh ngày 01/8/2016 và Vũ Tiến L, sinh ngày 22/5/2018. Từ khi vợ chồng sống ly thân, hai con chung Vũ Hoàng Ph1 và Vũ Thị Kim A sống cùng anh, còn con Vũ Tiến L sống cùng chị P. Nguyện vọng của anh sau khi ly hôn là xin được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung Vũ Hoàng Ph1 và Vũ Thị Kim A, anh H không yêu cầu chị P phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh. Đối với con Vũ Tiến L, anh H đồng ý để cho chị P tiếp tục nuôi dưỡng.

Về tài sản chung, công nợ: Anh và chị P không có tài sản chung, không nợ ai và không cho ai vay nợ.

Tại biên bản lấy lời khai và đơn xin xét xử vắng mặt ngày 01/8/2019, bị đơn là chị Nguyễn Thị P trình bày: Chị và anh H tự nguyện tìm hiểu và đăng ký kết hôn ngày 19/12/2012 (âm lịch) tại Ủy ban nhân dân xã Nam Ph, huyện H, tỉnh Thái Bình. Sau khi kết hôn vợ chồng chung sống hạnh phúc được khoảng 04 năm thì xảy ra mâu thuẫn do tính cách vợ chồng không hợp nhau, anh H không giữ vững lập trường sống và thường xuyên nghe lời mẹ đẻ, kinh tế không đưa cho chị giữ nên vợ chồng xảy ra va chạm, cãi chửi nhau. Từ tháng 02 năm 2018 cho đến nay chị và anh H sống ly thân. Nay anh H có đơn xin ly hôn chị, xác định tình cảm vợ chồng không còn nên chị cũng đồng ý ly hôn với anh H.

Về con chung: Chị và anhH có 03 con chung là Vũ Hoàng Ph1, sinh ngày 15/10/2013, Vũ Thị Kim A, sinh ngày 01/8/2016 và Vũ Tiến L, sinh ngày 22/5/2018. Từ Từ khi vợ chồng sống ly thân, hai con chung Vũ Hoàng Ph1 và Vũ Thị Kim A sống cùng anhH, còn con Vũ Tiến L sống cùng chị. Sau khi ly hôn, chị P xin được trực tiếp nuôi dưỡng con chung Vũ Tiến L, chị P không yêu cầu anhH phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Đối với con Vũ Hoàng Ph1 và Vũ Thị Kim A, chị P đồng ý để cho anh H tiếp tục nuôi dưỡng.

Về tài sản chung, công nợ: Chị và anhH không có tài sản chung, không nợ ai và không cho ai vay nợ.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên phát biểu quan điểm về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và phát biểu ý kiến về việc giải quyết vụ án:

- Về việc tuân theo pháp luật Tố tụng: Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã thực hiện nghiêm túc các quy định của bộ luật Tố tụng dân sự trong quá trình giải quyết vụ án, các văn bản tố tụng được tống đạt đầy đủ, đúng thời hạn cho các đương sự. Đối với nguyên đơn, bị đơn chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật, bị đơn không đến Tòa án làm việc nhưng đã có lời khai và có đơn đề nghị xét xử vắng mặt.

- Về nội dung vụ án: Về quan hệ hôn nhân: Đề nghị xử cho anh Vũ Xuân H được ly hôn chị Nguyễn Thị P; về con chung: Giao con chung Vũ Hoàng Ph1, sinh ngày 15/10/2013 và Vũ Thị Kim A, sinh ngày 01/8/2016 cho anhH trực tiếp nuôi dưỡng; giao con chung Vũ Tiến L, sinh ngày 22/5/2018 cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết; về tài sản chung: Không giải quyết; về án phí: anh Vũ Xuân H phải chịu 300.000 đồng án phí ly hôn sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và được tranh tụng tại phiên tòa cũng như phát biểu của Kiểm sát viên tại phiên tòa. Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1]. Về tố tụng: Bị đơn là chị Nguyễn Thị P có hộ khẩu thường trú tại Thôn H, xã Ph, huyện H, tỉnh Thái Bình. Theo quy định tại điều 39 Bộ luật Tố tụng dân, vụ án “Tranh chấp về hôn nhân và gia đình” giữa anh Vũ Xuân H và chị Nguyễn Thị P thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân huyện Tiền Hải. AnhH và chị P vắng mặt tại phiên tòa nhưng có đơn xin xét xử vắng mặt. Căn cứ vào khoản 1 điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự Hội đồng xét xử xét xử vắng mặt nguyên đơn và bị đơn.

[2]. Về nội dung:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Anh Vũ Xuân H và chị Nguyễn Thị P kết hôn trên cơ sở tự nguyện, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã Nam Phú, huyện Tiền Hải, tỉnh Thái Bình. Tại thời điểm kết hôn, anh H và chị P đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật Hôn nhân và gia đình. Đó là hôn nhân hợp pháp. Sau khi kết hôn, anhH và chị P chung sống hạnh phúc được 04 năm thì phát sinh mâu thuẫn do tính tình không hợp, vợ chồng không tìm được tiếng nói chung trong cuộc sống. Hiện tại anhH và chị P không chung sống cùng nhau, quan hệ vợ chồng không còn tồn tại trên thực tế. Cả anh H và chị P đều xác định tình cảm vợ chồng không còn và đề nghị Tòa án giải quyết việc ly hôn. Như vậy, hôn nhân của anhH và chị P đã lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được. Việc thuận tình ly hôn của anh H và chị P là tự nguyện, không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng điều 55 Luật hôn nhân và gia đình xử công nhận thuận tình ly hôn giữa anh Vũ Xuân H và chị Nguyễn Thị P.

[2.2] Về con chung: Anh Vũ Xuân H và chị Nguyễn Thị P có ba con chung là Vũ Hoàng Ph1, sinh ngày 15/10/2013, Vũ Thị Kim A, sinh ngày 01/8/2016 và Vũ Tiến L, sinh ngày 22/5/2018. Từ Từ khi vợ chồng sống ly thân, hai con chung Vũ Hoàng Ph1 và Vũ Thị Kim A sống cùng anh H, còn con Vũ Tiến L sống cùng chị P. AnhH có nguyện vọng xin được tiếp tục nuôi dưỡng hai con chung Vũ Hoàng Ph1 và Vũ Thị Kim A, chị P có nguyện vọng xin được tiếp tục nuôi dưỡng con chung Vũ Tiến L. Để đảm bảo điều kiện cho sự phát triển ổn định của con chung của anhH và chị P. Vì vậy, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anhH và chị P, giao con chung Vũ Hoàng Ph1 và Vũ Thị Kim A cho anhH trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; giao con chung Vũ Tiến L cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục là phù hợp với quy định tại điều 81 Luật hôn nhân và gia đình. AnhH và chị P không yêu cầu phải cấp dưỡng nuôi con chung cho nhau, nên việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết.

[2.3]. Về tài sản chung, công nợ: Không có.

[2.4]. Về án phí: Anh Vũ Xuân H phải chịu án phí ly hôn sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

[2.5]. Về quyền kháng cáo: Các đương sự được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào các điều 28, 35, 39, 147, 228, 271, 273 Bộ luật Tố tụng dân sự; Điều 51, 53, 55, 57, 58, 81, 82, 83, 84 Luật hôn nhân và gia đình; Điểm a, khoản 5 điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án;

1/ Về quan hệ hôn nhân: Xử công nhận thuận tình ly hôn giữa anh Vũ Xuân H và chị Nguyễn Thị P.

2/ Về con chung: Giao con chung Vũ Hoàng Ph1, sinh ngày 15/10/2013 và Vũ Thị Kim A, sinh ngày 01/8/2016 cho anh Vũ Xuân H trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục; giao con chung Vũ Tiến L, sinh ngày 22/5/2018 cho chị P trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục. Việc cấp dưỡng nuôi con chung không đặt ra giải quyết.

Anh Vũ Xuân H và chị Nguyễn Thị P có quyền thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.

3/ Về tài sản chung, công nợ: Không có.

4/ Về án phí: Anh Vũ Xuân H phải nộp 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) án phí ly hôn sơ thẩm, được trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000đồng (ba trăm nghìn đồng) anhH đã nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Tiền Hải theo biên lai thu số 0009161 ngày 10/7/2019.

5/ Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn, Bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được tống đạt hợp lệ.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

218
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2019/HNGĐ-ST ngày 23/10/2019 về tranh chấp hôn nhân và gia đình

Số hiệu:62/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Tiền Hải - Thái Bình
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 23/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về