Bản án 62/2019/DS-ST ngày 29/07/2019 về xin ly hôn 

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN MAI SƠN, TỈNH SƠN LA

BẢN ÁN 62/2019/DS-ST NGÀY 29/07/2019 VỀ XIN LY HÔN 

Ngày 29 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 37/2019/TLST-DS ngày 07 tháng 03 năm 2019 về việc xin ly hôn. Theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 19/2019/QĐXX-ST ngày 26 tháng 6 năm 2019; Quyết định hoãn phiên tòa số: 10/2019/QDDHPT-ST ngày 15 tháng 7 năm 2019 giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Anh Lò Mạnh H, sinh năm 1978. Địa chỉ: Bản B, xã B1, Huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Có mặt.

Bị đơn: Chị Lò Thị L, sinh năm 1985. Địa chỉ: Bản B, xã B1, Huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo nội dung đơn khởi kiện đề ngày 04 tháng 3 năn 2019 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn anh Lò Mạnh H trình bày như sau:

Anh và chị Lò Thị L hôn với nhau từ năm 2004 do cả hai cùng tự nguyện. Anh chị có đi đăng ký kết hôn tại UBND xã Hát Lót, Huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La vào ngày 23/02/2004. Anh chị có được hai bên gia đình tổ chức cưới hỏi theo phong tục tập quán. Sau khi kết hôn anh chị chung sống hòa thuận hạnh phúc được thời gian là 14 năm thì nảy sinh ra mâu thuận. Nguyên nhân là do chị L thường xuyên đi làm về muộn, giao lưu bạn bè uống rượu không chăm lo đến cuộc sống gia đình, chị không quan tâm chăm sóc cho con cái. Từ đó vợ chồng thường xuyên xảy ra cãi vã, xung đột. Không còn tin tưởng nhau về tất cả mọi vấn đề, chị L bỏ nhà đi không rõ ngày trở về. Anh chị đã sống ly thân từ năm 2018 đến nay anh nhận thấy không thể tiếp tục cuộc sống vợ chồng được nữa. Mặc dù hai bên gia đình đã cố gắng kG1ên bảo, động viên hai vợ chồng quay về đoàn tụ gia đình để nuôi dạy con cái nhưng anh xác nhận tình cảm vợ chồng không còn. Trước khi bỏ đi chị L cũng đã có ý kiến đồng ý ly hôn và ký vào đơn xin ly hôn cũng như biên bản họp gia đình nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh và chị L được ly hôn.

Về con chung: Anh chị có hai con chung là cháu Lò Băng G, sinh ngày 30/6/2012 và cháu Lò Mạnh G1, sinh ngày 15/6/2004. Nguyện vọng của anh là mong muốn được chăm sóc nuôi dưỡng cả hai cháu do chị L đã bỏ nhà đi không quan tâm gì đến cuộc sống của các con.

Về tài sản chung của vợ chồng: Không đề nghị tòa án xem xét, giải quyết. Về nợ chung: Không có.

Quá trình Tòa án giải quyết vụ án, Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn nhiều lần triệu tập chị L đến Tòa để giải quyết, nhưng chị L vắng mặt không có lý do. Vì vậy, căn cứ vào đề nghị của nguyên đơn và xét thấy cần thiết, Tòa án đã tiến hành xác minh theo quy định về nguyên nhân phát sinh mâu thuận, tình trạng hôn nhân, về con chung và tài sản chung, nợ chung ở địa phương nơi các đương sự cư trú:

Kết quả xác định: Anh H, chị L kết hôn từ năm 2004 và cứ trú tại bản Bó Đươi, xã B1, Huyện Mai Sơn. Quá trình chung sống vợ chồng thường xuyên cãi vã do chị L không quan tâm đến chồng con, không biết vun vén hạnh phúc gia đình. Chị L làm việc tại Hội đồng nhân dân xã B1 và đã có đơn xin thôi việc. Mâu thuận giữa hai bên đã được chính quyền địa phương hòa giải nhưng không thành. Tình cảm vợ chồng giữa hai bên đã không thể hàn gắn được. Về con chung, anh chị có 02 người con chung là Lò Băng G, sinh ngày 30/6/2012 và cháu Lò Mạnh G1, sinh ngày 15/6/2004. Từ khi chị L bỏ đi không quan tâm gì đến các cháu, hiện anh H là người trực tiếp chăm sóc nuôi dưỡng các cháu. Về tài sản chung và nợ chung đại diện ban quản lý bản không nắm cụ thể.

Sau khi những người tham gia tố tụng phát biểu tranh luận tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát nhân dân Huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án của Thẩm phán, Hội đồng xét xử; việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng dân sự kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và đường lối giải quyết vụ án như sau:

- Việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử trong quá trình giải quyết vụ án, kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án là đúng quy định của pháp luật.

- Việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Đối với nguyên đơn: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên toà ngày hôm nay nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình. Đối với bị đơn: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên toà ngày hôm nay bị đơn chưa thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, không có mặt theo giấy triệu tập của Tòa án.

Về đường lối giải quyết vụ án: Căn cứ các tài liệu chứng cứ có trong hồ sơ và tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét tất cả các ý kiến của những người tham gia phiên tòa, Kiểm sát viên đề nghị HĐXX quyết định: Áp dụng Điều 56, Điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh Lò Mạnh H đối với chị Lò Thị L. Về con chung: Giao cháu Lò Băng G, sinh ngày 30/6/2012 và cháu Lò Mạnh G1, sinh ngày 15/6/2004 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi). Chị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh H do anh H không có yêu cầu. Về tài sản chung, nợ chung: Không xem xét giải quyết. Về án phí: anh H phải chịu án phí ly hôn theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử xét thấy:

[1] Về tố tụng: Quá trình giải quyết vụ án Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn đã triệu tập hợp lệ đối với chị Lò Thị L trong việc tham gia các buổi làm việc tại tòa án. Tuy nhiên chị L vắng mặt mà không có lý do. Do vậy, tòa án không tiến hành hòa giải được theo quy định tại Điều 207 Bộ luật tố tụng dân sự. Đối với việc xét xử, trước khi mở phiên tòa, Tòa án cũng đã tiến hành triệu tập hợp lệ đối với các đương sự nhưng chị L vắng mặt lần 2 không có lý do. Vì vậy, căn cứ vào điểm b khoản 2 Điều 227 Bộ luật tố tụng dân sự HĐXX tiếp tục xét xử vụ án.

[2]. Về yêu cầu xin ly hôn:

[2.1] Về hôn nhân:

Anh Lò Mạnh H và chị Lò Thị L tự nguyện kết hôn với nhau từ năm 2004, anh chị đã được UBND xã Hát Lót, Huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La cấp giấy chứng nhận kết hôn vào ngày 03/02/2004. Khi kết hôn hai bên đủ điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật, do đó anh chị là vợ chồng hợp pháp. Sau khi kết hôn hai anh, chị chung sống hòa thuận, hạnh phúc được 14 năm thì phát sinh mâu thuận. Nguyên nhân mâu thuận vợ chồng là do vợ chồng anh chị không hòa hợp, chị L không chăm sóc chồng con, vun vén cuộc sống gia đình, hai bên thường xuyên xảy ra cãi vã. Quá trình điều tra xác minh nguyên nhân phát sinh mâu thuận giữa hai vợ chồng theo quy định tại khoản 3 Điều 208 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, đại diện chính quyền địa phương và bố đẻ của anh H cùng những người biết sự việc đã xác định: giữa anh chị có mâu thuận do chị L không chăm lo cho gia đình, thường xuyên đi đêm về hôm. Gia đình cũng đã hòa giải nhiều lần nhưng không thành. Việc mâu thuận diễn ra từ nhiều năm nay. Hội đồng xét xử xét thấy tình trạng hôn nhân giữa anh H và chị L mâu thuận đã trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được, do đó cần căn cứ Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu xin ly hôn của anh H, xử cho anh H được ly hôn với chị L.

[2.2] Về con chung: Anh chị có hai con chung là cháu Lò Băng G, sinh ngày 30/6/2012 và cháu Lò Mạnh G1, sinh ngày 15/6/2004. Căn cứ các tài liệu chứng cứ đương sự cung cấp cũng như Tòa án đã thu thập được, HĐXX xét thấy: Các cháu đều có nguyện vọng được ở với bố, anh H nhận trách nhiệm chăm sóc giáo dục các con đến tuổi trưởng thành. Hơn nữa chị L bỏ nhà đi cố tình che giấu địa chỉ, thời gian ly thân chị không quan tâm chăm sóc các con, chị vắng mặt và không thể hiện quan điểm tại Tòa án. Do đó, để đảm bảo quyền lợi của các cháu, xét thấy cần giao cháu Lò Băng G, sinh ngày 30/6/2012 và cháu Lò Mạnh G1, sinh ngày 15/6/2004 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi). Về vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung anh H không có yêu cầu.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, anh H xác nhận không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và không có nợ chung.

Trong quá trình Tòa án giải quyết vụ án, xác minh tại chính quyền địa phương, tiến hành niêm yết thông báo thụ lý cùng các quyết định, giấy triệu tập của Tòa án tại địa phương nơi chị L cư trú tuy nhiên không có trường hợp nào có ý kiến về nợ chung của vợ chồng anh H, chị L tại Tòa án.

Vì vậy, Hội đồng xét xử không xem xét, giải quyết trong vụ án này. Nếu sau này có phát sinh tranh chấp về tài sản chung và nợ chung và có người khởi kiện thì sẽ được giải quyết ở một vụ án khác.

[2.4] Về án phí: Anh H phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng khoản 1 Điều 56; Điều 81; Điều 82; Điều 83 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014; khoản 1 Điều 28; điểm a khoản 1 Điều 35; Điều 147; điểm b khoản 2 Điều 227; Điều 266; Điều 271, Điều 273 Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015; điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về án phí, lệ phí Tòa án.

1. Về hôn nhân: Cho ly hôn giữa anh Lò Mạnh H và chị Lò Thị L.

2. Về con chung: Giao cháu Lò Băng G, sinh ngày 30/6/2012 và cháu Lò Mạnh G1, sinh ngày 15/6/2004 cho anh H trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi thành niên (đủ 18 tuổi). Chị L không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh H do anh H không có yêu cầu.

Sau khi ly hôn, chị L được quyền thăm nom con, không ai được cản trở chị L được thực hiện quyền này theo quy định tại Điều 82, 83 Luật Hôn nhân và gia đình.

3. Về tài sản chung, nợ chung: Anh H xác nhận không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và không có nợ chung nên Tòa án không xem xét, giải quyết. Nếu sau này phát sinh tranh chấp về tài sản chung và nợ chung và có người khởi kiện thì sẽ được giải quyết ở một vụ án khác.

4. Về án phí: Anh H phải chịu án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm là 300.000 đồng nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí 300.000 đồng đã nộp theo biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0002115 ngày 07 tháng 3 năm 2019 tại Chi cục thi hành án dân sự Huyện Mai Sơn, tỉnh Sơn La.

5. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án; bị đơn được quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

295
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2019/DS-ST ngày 29/07/2019 về xin ly hôn 

Số hiệu:62/2019/DS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Mai Sơn - Sơn La
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 29/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về