Bản án 62/2018/HNGĐ-ST ngày 24/09/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 62/2018/HNGĐ-ST NGÀY 24/09/2018 VỀ LY HÔN VÀ TRANH CHẤP NUÔI CON

Trong ngày 24 tháng 9 năm 2018 tại Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 443/2018/TLST-HNGĐ ngày 04 tháng 7 năm 2018 về việc “Ly hôn và tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 64/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 12 tháng 9 năm 2018, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Trần Thị Mai S, sinh năm 1977.

Địa chỉ: 07 đường A, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có mặt.

2. Bị đơn: Ông Trần Mộng H, sinh năm 1971.

Địa chỉ: 07 đường A, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Có đơn xin xét xử vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

1. Trong đơn khởi kiện ngày 03-7-2018 và bản tự khai ngày 04-7-2018, nguyên đơn là bà Trần Thị Mai S trình bày:

Bà và ông Trần Mộng H tự nguyện tìm hiểu, được gia đình hai bên tổ chức lễ cưới và chung sống với nhau từ năm 1996 nhưng đến ngày 27-6-2001 mới đăng ký kết hôn tại Uỷ ban nhân dân phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Thời gian đầu ông bà chung sống hạnh phúc; thời gian về sau, vợ chồng nảy sinh nhiều mâu thuẫn, nguyên nhân là do tính cách vợ chồng không hợp nhau, cả hai không có tiếng nói chung trong mọi việc. Nay bà nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng đã thật sự trầm trọng, không ai còn thương yêu, quý trọng gì nhau và không thể hàn gắn tình cảm vợ chồng được nữa. Để đem lại sự độc lập cho bà, bà yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà được ly hôn với ông H.

Bà và ông H có ba con chung là cháu Trần Mộng Quỳnh N, sinh ngày 07-6- 1997; cháu Trần Thị Ngân N, sinh ngày 20-11-2001 và cháu Trần Thị Kiều D, sinh năm 25-01-2007. Đối với cháu Trần Mộng Quỳnh N đã thành niên nên bà không yêu cầu Tòa án giải quyết. Ly hôn, nguyện vọng của bà là được tiếp tục trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng các cháu Trần Thị Ngân N và Trần Thị Kiều D; bà không yêu cầu ông H cấp dưỡng nuôi con.

Bà không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nghĩa vụ chung.

2. Tại bản tự khai ngày 12-8-2018 và đơn xin giải quyết, xét xử vắng mặt ngày 15-9-2018, bị đơn là ông Trần Mộng H trình bày:

Ông và bà Trần Thị Mai S tự nguyện tìm hiểu và có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai ngày 27-6-2001. Thời gian đầu chung sống hạnh phúc, nhưng thời gian về sau thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do cả hai không hợp nhau, bất đồng về quan điểm sống nên thường xuyên cãi vã dẫn đến tình cảm vợ chồng rạn nứt. Mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, không thể hàn gắn được. Nay, bà S yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn, ông hoàn toàn đồng ý. Để mỗi người có một cuộc sống riêng, ông đề nghị Tòa án giải quyết cho ông và bà S được ly hôn.

Ông và bà S có ba con chung là cháu Trần Mộng Quỳnh N, sinh ngày 07-6- 1997; cháu Trần Thị Ngân N, sinh ngày 20-11-2001 và cháu Trần Thị Kiều D, sinh năm 25-01-2007. Cháu Trần Mộng Quỳnh N đã thành niên và tự lập nên ông không có yêu cầu gì. Đối với hai cháu Trần Thị Ngân N và Trần Thị Kiều D là con gái, ở với bà S sẽ thuận tiện hơn nên ông đồng ý giao hai cháu Trần Thị Ngân N và Trần Thị Kiều D cho bà S trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc. Ông sẽ tự lo cho các con theo cách của mình.

Ông không yêu cầu Tòa án giải quyết về tài sản chung và nghĩa vụ chung.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bị đơn là ông Trần Mộng H vắng mặt tại phiên tòa có đơn đề nghị Tòa án xét xử vắng mặt nên theo quy định tại khoản 1 Điều 227 và khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt bị đơn.

[2] Về hôn nhân: Bà Trần Thị Mai S và ông Trần Mộng H chung sống với nhau từ năm 1996 nhưng đến ngày 27-6-2001 mới đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, nên đây là hôn nhân hợp pháp.

Trong quá trình chung sống, ông bà phát sinh nhiều mâu thuẫn, ông bà không yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ nhau, người nào chỉ biết bổn phận người đó. Mặc dù, đã được hai bên gia đình nhắc nhở, hòa giải nhiều lần nhưng ông bà vẫn tiếp tục sống ly thân và bỏ mặc nhau.

Chính vì vậy, đã có đủ cơ sở để nhận định rằng, tình trạng hôn nhân của họ đã đến mức trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, quan hệ vợ chồng đã thực sự không thể hàn gắn được nữa, mục đích của hôn nhân là xây dựng một gia đình hoà thuận, hạnh phúc không đạt được nên yêu cầu của bà Trần Thị Mai S về việc ly hôn ông Trần Mộng H là có căn cứ, được chấp nhận.

[3] Về con: Bà Trần Thị Mai S và ông Trần Mộng H có ba con chung là cháu Trần Mộng Quỳnh N, sinh ngày 07-6-1997; cháu Trần Thị Ngân N, sinh ngày 20-11-2001 và cháu Trần Thị Kiều D, sinh năm 25-01-2007. 

Cháu Trần Mộng Quỳnh N đã thành niên nên các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Ông Trần Mộng H chấp nhận giao hai con chung là cháu Trần Thị Ngân N và cháu Trần Thị Kiều D cho bà Trần Thị Mai S trực tiếp chăm nom, nuôi dưỡng và giáo dục; đồng thời, tại đơn trình bày nguyện vọng đề ngày 31-8-2018, cháu Trần Thị Ngân N và cháu Trần Thị Kiều D có nguyện vọng được ở với bà Trần Thị Mai S khi cha mẹ ly hôn. Xét thấy, từ nhỏ cho đến nay các cháu ở với bà Trần Thị Mai S, được chăm sóc, nuôi dạy chu đáo, bà Trần Thị Mai S có công việc và thu nhập ổn định nên đủ khả năng, điều kiện để nuôi dưỡng các con, đảm bảo được cuộc sống và sự phát triển bình thường về mọi mặt cho các con; nguyện vọng của các đương sự và các cháu Trần Thị Ngân N và Trần Thị Kiều D là chính đáng, đúng pháp luật, đảm bảo quyền lợi của các con vì vậy Hội đồng xét xử chấp nhận giao hai con chung là cháu Trần Thị Ngân N và cháu Trần Thị Kiều D cho bà Trần Thị Mai S tiếp tục trực tiếp chăm nom, nuôi dưỡng và giáo dục.

[4] Về nghĩa vụ cấp dưỡng cho con: Bà Trần Thị Mai S không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[5] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không giải quyết.

[6] Về án phí: Bà Trần Thị Mai S là nguyên đơn xin ly hôn nên phải chịu án phí dân sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 28, 35, 147, khoản 1 Điều 227, khoản 1 Điều 228 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56, 81, 82, 83 và 84 của Luật Hôn nhân và gia đình;

Căn cứ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án;

Xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Mai S; bà Trần Thị Mai S được ly hôn ông Trần Mộng H.

2. Giao cháu Trần Thị Ngân N, sinh ngày 20-11-2001 và cháu Trần Thị Kiều D, sinh năm 25-01-2007 cho bà Trần Thị Mai S trực tiếp chăm nom, nuôi dưỡng và giáo dục cho đến khi thành niên hoặc đã thành niên mà mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ tôn trọng quyền của con được sống chung với người trực tiếp nuôi.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở.

Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trong trường hợp có yêu cầu của cha, mẹ hoặc cá nhân, tổ chức theo quy định của pháp luật, Tòa án có thể quyết định việc thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Bà Trần Thị Mai S phải chịu án phí dân sự sơ thẩm là 300.000 đồng, nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí dân sự sơ thẩm đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai số 0003805 ngày 04-7-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P, tỉnh Gia Lai; bà Trần Thị Mai S đã nộp đủ tiền án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

4. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, bà Trần Thị Mai S có quyền kháng cáo yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai xét xử phúc thẩm. Riêng ông Trần Mộng H vắng mặt tại phiên toà, nên ông có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

173
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 62/2018/HNGĐ-ST ngày 24/09/2018 về ly hôn và tranh chấp nuôi con

Số hiệu:62/2018/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 24/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về