TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM
BẢN ÁN 62/2018/HNGĐ-ST NGÀY 14/11/2018 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 14 tháng 11 năm 2018 tại hội trường xử án, Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm xét xử sơ thẩm công khai vụ án hôn nhân gia đình thụ lý số 341/2018/TLST-HNGĐ ngày 13 tháng 6 năm 2018 về việc: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số 30/2018/QĐXXST-HNGĐ ngày 29-10-2018 giữa các đương sự:
Nguyên đơn: Anh Lâm Thế N, sinh năm: 1981. Có mặt Địa chỉ: khu phố 6, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận;
Bị đơn: Chị Nguyễn Lê Khánh T, sinh năm: 1983. Có mặt Địa chỉ: Khu phố 5, phường Đ, thành phố P, tỉnh Ninh Thuận.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 05-6-2018, trong quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa Nguyên đơn anh Lâm Thế N trình bày:
Anh và chị Nguyễn Lê Khánh T đăng ký kết hôn vào năm 2004, được Ủy ban nhân dân phường Đ cấp Giấy chứng nhận kết hôn số 116 ngày 09-12-2004. Đến năm 2005 mới tổ chức cưới và về chung sống với nhau. Thời gian đầu vợ chồng chung sống hạnh phúc. Đến năm 2009 vợ chồng phát sinh mâu thuẫn do chị T giấu giếm anh làm những việc mà anh không biết. Mâu thuẫn trầm trọng năm 2014 khi chị T giấu anh vay mượn tiền bạc của nhiều người. Anh đã phải vay mượn để trả nợ cho chị T. Tháng 6 năm 2017 chị T đã bỏ nhà đi và dẫn theo đứa con nhỏ đi. Tháng 3-2018 chị T quay về để lại con cho anh nuôi và tiếp tục bỏ đi.
Nay anh không còn tình cảm với chị T nữa nên đề nghị Tòa giải quyết cho anh được ly hôn.
Vợ chồng có 02 con chung tên Lâm Như H, sinh ngày 27-02-2006 và Lâm Như Th, sinh ngày 27-4-2015. Anh xin nuôi 02 con và không yêu cầu chị T cấp dưỡng nuôi con chung.
Anh là viên chức, thu nhập từ 6.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng/tháng, chị T nay đây mai đó không có việc làm ổn định, thu nhập bao nhiêu anh không biết.
Tài sản chung và nợ chung: anh không yêu cầu Tòa giải quyết trong vụ án này.
Bị đơn chị Nguyễn Lê Khánh T trình bày:
Chị xác nhận thời gian chung sống, đăng ký kết hôn, con chung đúng như anh N trình bày. Trước yêu cầu khởi kiện của anh Nghĩa, chị đồng ý ly hôn.
Về con chung chị xin được nuôi 02 con chung vì con chị là con gái, sự phát triển tâm sinh lý cần có sự chăm sóc của người mẹ.
Hiện anh N là viên chức, thu nhập 6.000.000 đồng đến 7.000.000 đồng/tháng còn chị đang làm cho một công ty tư nhân ở thành phố Hồ Chí Minh, lương 7.000.000 đồng/tháng, tổng thu nhập khoảng 10.000.000 đồng/tháng.
Tài sản chung và nợ chung: chị không yêu cầu Tòa giải quyết trong vụ án này. Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát: Từ khi thụ lý vụ án đến trước khi HĐXX vào nghị án, Thẩm phán, Thư ký, Nguyên đơn, Bị đơn đều tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Tại phiên tòa hôm nay HĐXX đúng thành phần, xét xử đảm bảo đúng quy định của pháp luật. Về việc giải quyết vụ án: đề nghị HĐXX chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn, công nhận thuận tình ly hôn giữa anh N và chị T; giao cháu Lâm Như H, sinh ngày 27-02-2006 cho chị T nuôi, giao cháu Lâm Như Th, sinh ngày 27-4-2015 cho anh N nuôi.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, lời trình bày và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, ý kiến của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về thủ tục tố tụng:
Căn cứ vào đơn khởi kiện và các tài liệu chứng cứ kèm theo, xác định quan hệ pháp luật tranh chấp trong vụ kiện này là: “Ly hôn, tranh chấp nuôi con” được quy định tại khoản 1 Điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự; thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố Phan Rang- Tháp Chàm theo quy định tại khoản 1 Điều 35 và khoản 1 Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự.
[2] Về nội dung:
Xét yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn, HĐXX thấy rằng:
[2.1] Quan hệ hôn nhân giữa anh Lâm Thế N và chị Nguyễn Lê Khánh T được xác lập trên cơ sở tự nguyện và có đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, đây là hôn nhân hợp pháp. Quá trình giải quyết vụ án cũng như tại phiên tòa anh N và chị T thuận tình ly hôn. Xét thấy sự thỏa thuận này là tự nguyện, phù hợp pháp luật nên HĐXX công nhận.
[2.2] Về quan hệ con cái: Vợ chồng có 02 con chung tên Lâm Như H, sinh ngày 27-02-2006 và Lâm Như Th, sinh ngày 27-4-2015. Cả anh N và chị T đều có nguyện vọng nuôi 02 con, không yêu cầu bên kia cấp dưỡng. Xét thấy: từ khi chị T bỏ đi đến nay, anh N là người trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc cháu Th. Tại phiên tòa chị T xác nhận thời gian không có chị ở nhà, cháu Th sống tốt, phát triển bình thường; anh N là người cha tốt, chăm sóc con chu đáo. Hơn nữa chị T hiện đang thuê nhà ở, công việc chưa ổn định, tại phiên tòa chị trình bày thu nhập từ 7.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng/tháng nhưng không có chứng cứ chứng minh. Để đảm bảo cuộc sống cháu Th không bị xáo trộn, sau khi cân nhắc quyền lợi của cháu về mọi mặt, HĐXX quyết định giao cháu Th cho anh N trực tiếp nuôi dưỡng. Đối với cháu Lâm Như H, cháu có nguyện vọng ở với mẹ. Xét thấy việc giao cháu H cho mẹ nuôi cũng thuận tiện vì cháu đang ở nhà bà ngoại nên HĐXX giao cháu H cho chị T nuôi. Do các bên đều không có yêu cầu cấp dưỡng nên HĐXX không xem xét.
[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: các đương sự không yêu cầu Tòa giải quyết trong vụ án này.
[2.4] Xét ý kiến của đại diện Viện kiểm sát, phù hợp với những nhận định trên, nên chấp nhận.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào: Khoản 1 Điều 28, khoản 1 Điều 35, khoản 1 Điều 39, khoản 4 Điều 147 Bộ luật tố tụng dân sự; Điều 55, các điều 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 5 Điều 27 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội.
Tuyên xử:
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của Nguyên đơn anh Lâm Thế N.
- Về quan hệ hôn nhân: Công nhận sự thuận tình ly hôn giữa anh Lâm Thế N và chị Nguyễn Lê Khánh T.
- Về quan hệ con cái: Anh Lâm Thế N được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 01 con chung tên Lâm Như Th, sinh ngày 27-4-2015; chị Nguyễn Lê Khánh T được quyền trực tiếp nuôi dưỡng 01 con chung tên Lâm Như H, sinh ngày 27-02-2006. Không bên nào có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con chung.
Hai bên đều có quyền và nghĩa vụ đối với con chung; không ai được cản trở việc thăm nom, chăm sóc, giáo dục con chung.
Về án phí: Anh Lâm Thế N phải chịu 300.000 đồng (ba trăm ngàn đồng) án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm nhưng được trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng theo biên lai thu số 0016923 ngày 06-6-2018 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phan Rang- Tháp Chàm. Anh N đã nộp đủ án phí Hôn nhân gia đình sơ thẩm.
Án xử công khai, sơ thẩm, có mặt Nguyên đơn, Bị đơn, quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.
Bản án 62/2018/HNGĐ-ST ngày 14/11/2018 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 62/2018/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thành phố Phan Rang Tháp Chàm - Ninh Thuận |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 14/11/2018 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về