Bản án 619/2020/HS-ST ngày 17/11/2020 về tội cướp giật tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ B - TỈNH ĐỒNG NAI

BẢN ÁN 619/2020/HS-ST NGÀY 17/11/2020 VỀ TỘI CƯỚP GIẬT TÀI SẢN

Ngày 17 tháng 11 năm 2020, tại Trụ sở Tòa án nhân dân Th phố B, tỉnh Đồng Nai xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 612/2020/TLST-HS ngày 26 tháng 10 năm 2020 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 627/2020/QĐXX-HS ngày 02 tháng 11 năm 2020 đối với bị cáo:

Họ và tên: Võ Văn Th, sinh năm 2001 tại Đồng Nai (có mặt); Nơi cư trú:

173C/1, khu phố Nhất Hòa, phường Hiệp Hòa, Th phố B, tỉnh Đồng Nai; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: 5/12; dân tộc: kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Võ Văn Sĩ, sinh năm: 1965; và bà: Huỳnh Thị Hồng, sinh năm 1975; gia đình có 04 anh em, bị cáo là con thứ ba trong gia đình; chưa có vợ, con; tiền án: không; tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 30/8/2019 Tòa án nhân dân Th phố B xét xử 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 06/5/2019.

Bị bắt tạm giữ ngày 30 tháng 6 năm 2020 và chuyển tạm giam theo Lệnh tạm giam số: 854 ngày 08 tháng 7 năm 2020 của Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Th phố B. Hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an Th phố B.

- Bị hại: Ông Phạm Việt L, sinh năm 1959 (vắng mặt).

Địa chỉ: phường Hiệp Hòa, Th phố B, tỉnh Đồng Nai.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan: Ông Nguyễn Văn H, sinh năm 1989 (vắng mặt).

Địa chỉ: phường Tân Phong, Th phố B, tỉnh Đồng Nai.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Võ Văn Th là người cùng khu phố với ông Phạm Viết L (sinh năm 1959, ngụ tại số 197/25/1/1, khu phố Nhất Hòa, phường Hiệp Hòa, Th phố B, tỉnh Đồng Nai) làm nghề chạy xe ôm. Để có tiền tiêu xài, Th nảy sinh ý định chiếm đoạt tài sản của ông L. Thực hiện ý định trên, vào khoảng 09 giờ ngày 28 tháng 6 năm 2020, Th đến nhà ông L giả vờ thuê ông L chở Th đến khu vực phường Tân Tiến, Th phố B, tưởng thật nên ông L đã đồng ý và sử dụng xe mô tô chở Th đi. Khi ông L chở Th đi đến khu vực trước nhà số 124, khu phố 6, phường Tân Tiến thì Th xuống xe, tiếp tục giả vờ mượn chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J6+ màu đen của ông L để gọi cho cô của Th, sau khi được ông L đưa chiếc điện thoại trên cho Th thì Th liền cầm chiếc điện thoại của ông L nhanh chóng chạy băng qua bên đường hướng sang phường Tân Phong và tẩu thoát. Sau đó, Th mang chiếc điện thoại trên của ông L đi đến tiệm điện thoại “Duy H” của anh Nguyễn Văn H (sinh năm 1989) tại địa chỉ số 851, khu phố 9, phường Tân Phong, Th phố B bán được số tiền 1.000.000 đồng (Một triệu đồng) tiêu xài hết. Đến ngày 30 tháng 6 năm 2020, Th đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Th phố B bắt khẩn cấp để điều tra, xử lý.

Vật chứng của vụ án gồm: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J6+ màu đen, số imei: 354402103323176, do ông Nguyễn Văn H giao nộp, là tài sản của ông L bị chiếm đoạt nên Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Th phố B đã trả lại cho ông L.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 291/KL-HĐĐGTS ngày 06/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Th phố B kết luận: “01 điện thoại di động hiệu Samsung J6+, đã qua sử dụng, chất lượng còn lại 80%, trị giá 2.712.000 đồng (Hai triệu bảy trăm mười hai nghìn đồng)”.

Về dân sự: Bị hại ông Phạm Viết L và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn H, không có yêu cầu bồi thường.

Bản cáo trạng số: 619/CT-VKSBH ngày 21/10/2020 của Viện kiểm sát nhân dân Th phố B truy tố bị cáo về tội: “Cướp giật tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa Kiểm sát viên trình bày lời luận tội giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị: Áp dụng khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự, sửa đổi, bổ sung năm 2017;

điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Xử phạt: Bị cáo Võ Văn Th từ 01 (một) năm 02 (hai) tháng tù đến 01 (một) năm 04 (bốn) tháng tù.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Kính mong Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Th phố B, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Th phố B, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục qui định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và bị hại không có có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Xét lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với các lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, các chứng cứ khác có tại hồ sơ và cáo trạng Viện kiểm sát nhân dân Th phố B mô tả. Để có tiền tiêu xài, vào khoảng 09 giờ ngày 28 tháng 6 năm 2020, tại khu vực trước nhà số 124, khu phố 6, phường Tân Tiến, Th phố B, tỉnh Đồng Nai, bị cáo Võ Văn Th đã có hành vi cướp giật 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung J6+ màu đen của ông Phạm Viết L thì bị phát hiện, bắt khẩn cấp, khởi tố, điều tra xử lý.

Tại bản kết luận định giá tài sản số: 291/KL-HĐĐGTS ngày 06/7/2020 của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Th phố B kết luận: “01 điện thoại di động hiệu Samsung J6+, đã qua sử dụng, chất lượng còn lại 80%, trị giá 2.712.000 đồng (Hai triệu bảy trăm mười hai nghìn đồng)”.

[3] Từ đó có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo Võ Văn Th đã phạm vào tội “Cướp giật tài sản”, theo quy định tại khoản 1 Điều 171 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[4] Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm trực tiếp đến quyền sở hữu tài sản của công dân, làm mất an ninh trật tự tại địa phương, gây hoang mang và bất bình cho quần chúng nhân dân nên cần có mức án nghiêm để cải tạo và giáo dục bị cáo và ren đe phòng ngừa chung.

[5] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[6] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo Th khẩn khai báo, ăn năn hối cải quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Bị cáo Võ Văn Th có nhân thân xấu: Ngày 30/8/2019 Tòa án nhân dân Th phố B xét xử 06 (sáu) tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 06/5/2019. Ngày 06/11/2019 bị cáo chấp hành xong án phạt tù. Theo điểm b khoản 1 Điều 107 Bộ luật hình sự quy định “Người dưới 18 tuổi bị kết án được coi là không có án tích, nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: “...Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi bị kết án về tội phạm ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng hoặc tội phạm rất nghiêm trọng do vô ý”.

[7] Về trách nhiệm dân sự: Ông Phạm Viết L và người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Nguyễn Văn H đã nhận lại tài sản, không yêu cầu bồi thường gì thêm nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét, giải quyết.

[8] Đối với ông Nguyễn Văn H có hành vi mua chiếc điện thoại do bị cáo Th trộm được của ông Phạm Việt L nhưng khi mua ông H không biết là tài sản do phạm tội mà có nên Cơ quan điều tra không xử lý.

[9] Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố bị cáo Võ Văn Th phạm tội “Cướp giật tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 171 của Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Võ Văn Th 01 (Một) năm 02 (Hai) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 30/6/2020.

Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 135 và khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, bị cáo phải chịu 200.000đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết theo quy định của pháp luật.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự; người được thi hành án, người phải thi hành án có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

204
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 619/2020/HS-ST ngày 17/11/2020 về tội cướp giật tài sản

Số hiệu:619/2020/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Biên Hòa - Đồng Nai
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 17/11/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về