Bản án 61/2021/HSST ngày 31/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ CAO BẰNG - TỈNH CAO BẰNG

 BẢN ÁN 61/2021/HSST NGÀY 31/05/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 31 tháng 5 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:54/2021/HSST ngày 28 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 98/2021/QĐXXST-HS ngày 20/5/2021 của Tòa án nhân dân thành phố Cao Bằng đối với bị cáo:

Lê Thị Thu N; Giới tính: Nữ; Tên gọi khác: Không; Sinh ngày:16/10/1981 tại huyện S, tỉnh Tuyên Quang; Hộ khẩu thường trú và chỗ ở hiện nay:tổ M, phường S, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng; Dân tộc: Kinh; Quốc tịch: Việt Nam; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Lao động tự do; Trình độ học vấn:12/12; Con ông: Lê Hữu Đ - sinh năm 1959 (trú tại: tổ M, phường S, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng); Con bà: Mai Thị L - sinh năm 1957 (trú tại: huyện S, tỉnh Tuyên Quang); Bố nuôi: Đoàn Thế V (đã chết năm 2012); Mẹ nuôi: Lê Thị Thu S - sinh năm 1956 (trú tại: tổ M, phường S, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng); Có 04 (bốn) chị em, bị cáo là con thứ hai trong gia đình; Chồng: Trần Hải T - sinh năm 1975 (trú tại: huyện S, tỉnh Tuyên Quang); Có 02 (hai) con, con lớn sinh năm 2003, con nhỏ sinh năm 2006; Tiền án, tiền sự: không; Nhân thân: Ngày 23/02/2011 bị Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy.

Bị cáo bị tạm giam từ ngày 10/01/2021 tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Cao Bằng; Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ 00 phút ngày 10/01/2021, Lê Thị Thu N đi ra khu vực Bến xe khách cũ thuộc phường S, thành phố Cao Bằng để tìm mua Heroine về sử dụng. Tại đây, N gặp một người đàn ông trông giống người nghiện, khoảng 40 tuổi (không quen, không biết tên và địa chỉ) có biểu hiện nghiện ma túy nên N hỏi người này có biết chỗ nào lấy ma túy thì lấy cho N 7.000.000 đồng (bảy triệu đồng). Người này đồng ý rồi đi khoảng 15 phút sau quay lại đưa cho N 01 (một) gói giấy nilon màu trắng trong suốt bên trong là lớp giấy ăn màu trắng chứa 02 (hai) gói nilon màu trắng được buộc bằng dây nịt màu vàng, bên trong hai gói có chứa Heroine. Sau khi mua được Heroine, N đi tìm chỗ vắng để sử dụng, vào hồi 22 giờ 10 phút khi đi đến đoạn đường thuộc tổ B, phường S, thành phố Cao Bằng, N dừng xe để chuẩn bị lấy ma túy ra sử dụng thì bị tổ công tác đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thành phố Cao Bằng và Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Cao Bằng phát hiện bắt quả tang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và thu giữ toàn bộ vật chứng gồm:

- 01 (một) gói giấy nilon màu trắng trong suốt bên trong là lớp giấy ăn màu trắng chứa 02 (hai) gói nilon màu trắng trong được buộc bằng dây nịt màu vàng trên mỗi gói, bên trong cả hai gói có chứa chất bột màu trắng dạng cục lẫn bột (N khai là Heroine), có khối lượng 6,83g (sáu phẩy tám ba gam), thu giữ trong túi áo bên trái áo Lê Thị Thu N đang mặc;

- Tiền Việt Nam 4.000.000đ (bốn triệu đồng chẵn);

- 01 (một) thẻ ATM mang tên Lê Thị Thu N;

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen, điện thoại cũ qua sử dụng;

- 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đen, biển kiểm soát:

11B1 - 370.84.

Ngày 11/01/2020, cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng đã ra Quyết định trưng cầu giám định số 29 đối với vật chứng của vụ án. Tại bản Kết luận giám định số 48/GĐMT ngày 21/01/2021 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng kết luận: “Chất bột màu trắng bên trong phong bì niêm phong gửi giám định là ma túy, loại: Heroine”.

Tại bản Cáo trạng số 49/CT-VKSTP ngày 27/4/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng đã truy tố bị cáo Lê Thị Thu N về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự.

Tại phiên tòa, bị cáo thành khẩn khai nhận hành vi phạm tội như nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Bị cáo nhất trí với trọng lượng ma túy bị thu giữ và Kết luận giám định số 48/GĐMT ngày 21/01/2021 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Cao Bằng cũng như các hành vi tố tụng và quyết định tố tụng của cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình giải quyết vụ án. Đối với tài sản bị thu giữ bao gồm: Tiền Việt Nam 4.000.000đ (bốn triệu đồng); 01 (một) thẻ ATM mang tên Lê Thị Thu N;

01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu nokia màu đen, điện thoại cũ qua sử dụng;

01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đen, biển kiểm soát 11B1 - 370.84. Bị cáo trình bày đây là những tài sản của bị cáo, không liên quan đến hành vi phạm tội nên yêu cầu xem xét được trả lại tài sản.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án và lời khai nhận của bị cáo tại phiên tòa thấy rằng: Hành vi của bị cáo Lê Thị Thu N đã đủ yếu tố cấu thành tội:“Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm g khoản 2 Điều 249; Điều 38; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017). Về hình phạt chính: Đề nghị xử phạt bị cáo từ 05 (năm) năm 06 (sáu) tháng tù đến 06 (sáu) năm tù. Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng.

Về xử lý vật chứng: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015 và Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự 2015. Đề nghị xử: Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước ghi tang vật cân Lê Thị Thu N; Trả lại cho bị cáo: Tiền Việt Nam 4.000.000đ (bốn triệu đồng); 01 (một) thẻ ATM mang tên Lê Thị Thu N; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu nokia màu đen, điện thoại cũ qua sử dụng; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đen, biển kiểm soát:

11B1 - 370.84 do không liên quan đến hành vi phạm tội của bị cáo.

Bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Tại phần tranh luận, bị cáo không có ý kiến tranh luận với lời luận tội của đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng.

Khi được nói lời sau cùng, bị cáo mong Hội đồng xét xử xem xét cho bị cáo hưởng mức án nhẹ nhất để sớm trở về với gia đình, xã hội.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan điều tra Công an thành phố Cao Bằng, Điều tra viên; Viện kiểm sát nhân dân thành phố Cao Bằng, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về tội danh: Xét lời khai của bị cáo Lê Thị Thu N tại phiên tòa phù hợp với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản tạm giữ đồ vật, bản Kết luận giám định cùng các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ và nội dung bản cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Vào hồi 22 giờ 10 phút ngày 10/01/2021 tại tổ B, phường S, thành phố Cao Bằng, đội Cảnh sát điều tra tội phạm về kinh tế - ma túy Công an thành phố Cao Bằng phối hợp với Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an tỉnh Cao Bằng bắt quả tang Lê Thị Thu N có hành vi tàng trữ trái phép 6,83g (sáu phẩy tám ba gam) Heroine nhằm mục đích để sử dụng cho bản thân.

Bị cáo là người có đủ năng lực trách nhiệm hình sự, nhận thức được tác hại của chất ma túy, biết rõ hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy là vi phạm pháp luật nhưng vì muốn có ma túy để sử dụng cho bản thân nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hành vi của bị cáo Lê Thị Thu N đã đủ các yếu tố cấu thành tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy" theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

[3] Xét tính chất, mức độ hành vi phạm tội: Hành vi của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, đã cố ý xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của nhà nước về các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình trật tự trị an trên địa bàn thành phố, tiềm ẩn nguy cơ phát sinh nhiều tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Do đó, cần xử lý nghiêm khắc đối với bị cáo theo quy định của pháp luật.

[4] Về nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

Về nhân thân: Bị cáo là người nghiện ma túy, có nhân thân xấu. Năm 2011 bị Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên, tỉnh Thái Nguyên xử phạt 02 năm 06 tháng tù về tội tàng trữ trái phép chất ma túy nhưng bị cáo không lấy đó làm bài học cho bản thân mà lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự năm 2015. Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không có.

[5] Về hình phạt: Căn cứ vào nhân thân, tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, tính chất mức độ của hành vi phạm tội và trọng lượng chất ma túy bị cáo bị truy tố, xét thấy cần thiết phải cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhất định để cải tạo, giáo dục riêng đối với bị cáo và phòng ngừa tội phạm chung. Đại diện Viện kiểm sát đề nghị mức hình phạt tù đối với bị cáo là có căn cứ, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử.

Ngoài hình phạt chính, theo khoản 5 Điều 249 Bộ luật hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) bị cáo còn có thể phải chịu hình phạt bổ sung là phạt tiền. Hội đồng xét xử xét thấy bị cáo là lao động chính, hiện đang nuôi 02 con nhỏ, không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định nên không áp dụng hình phạt bổ sung với bị cáo.

[6] Về xử lý vật chứng, tài sản tạm giữ: Áp dụng Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự:

- Đối với 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước ghi tang vật cân Lê Thị Thu N, sinh năm 1981; HKTT: tổ M, phường S, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng. Xét thấy, đây là vật cấm tàng trữ, lưu hành nên cần tịch thu tiêu hủy.

- Đối với tài sản thu giữ gồm: Số tiền Việt Nam 4.000.000đ (bốn triệu đồng); 01 (một) thẻ ATM mang tên Lê Thị Thu N; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu nokia màu đen, điện thoại cũ qua sử dụng; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đen, biển kiểm soát: 11B1 - 370.84; xét thấy, tài sản này có nguồn gốc của bị cáo và không liên quan đến hành vi phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo, nhưng cần tạm giữ số tiền 4.000.000 đồng (bốn triệu đồng chẵn) để đảm bảo thi hành án.

[7] Về nguồn gốc số Heroine: Bị cáo khai mua với một người đàn ông không quen biết tại bến xe khách cũ thành phố Cao Bằng, nhưng bị cáo không biết tên và địa chỉ, việc mua bán không ai biết và chứng kiến nên cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Cao Bằng không đủ căn cứ để mở rộng điều tra vụ án là có căn cứ.

[8] Các ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tại phiên tòa là đúng pháp luật, phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[9] Về án phí và quyền kháng cáo: Bị cáo Lê Thị Thu N phải chịu án phí hình sự sơ thẩm và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Lê Thị Thu N phạm tội "Tàng trữ trái phép chất ma túy".

Áp dụng: điểm g khoản 2 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 38 Bộ luật hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Xử phạt: Bị cáo Lê Thị Thu N 06 (sáu) năm tù. Thời hạn chấp hành án phạt tù được tính từ ngày 10/01/2021.

2. Về xử lý vật chứng, tài sản tạm giữ: áp dụng Điều 47 Bộ luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017); Điều 106 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

- Tịch thu tiêu hủy: 01 (một) phong bì niêm phong mặt trước ghi tang vật cân Lê Thị Thu N, sinh năm 1981; HKTT: tổ M, phường S, thành phố Cao Bằng, tỉnh Cao Bằng. Có hành vi: Tàng trữ trái phép chất ma túy, bắt ngày 10/01/2021.

- Trả lại cho bị cáo: 01 (một) phong bì niêm phong tiền Việt Nam 4.000.000đ (bốn triệu đồng chẵn), kèm Kết luận giám định tiền số 329/KL-CAB ngày 28/4/2021 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chi nhánh tỉnh Cao Bằng;

01 (một) thẻ ATM mang tên Lê Thị Thu N; 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen (điện thoại bàn phím số), màn hình điện thoại có nhiều vết cháy, điện thoại cũ qua sử dụng; 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade (theo Quyết định chuyển vật chứng là màu đen), thực tế khi nhận là màu xám đen, biển kiểm soát: 11B1 - 370.84, có số khung: RLHJF6316KZ014087, số máy: ZS63E – 2471196, xe cũ đã qua sử dụng. Nhưng cần tạm giữ số tiền 4.000.000 đồng (Bốn triệu đồng chẵn) để đảm bảo thi hành án.

Xác nhận số vật chứng này hiện nay đang nằm tại kho tang vật của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Cao Bằng theo Biên bản giao nhận vật chứng số 71 ngày 28/4/2021.

3.Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án:

Bị cáo Lê Thị Thu N phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm để sung vào công quỹ Nhà nước.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo có mặt tại phiên toà có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

248
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 61/2021/HSST ngày 31/05/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:61/2021/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Cao Bằng - Cao Bằng
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 31/05/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về