Bản án 61/2021/HNGĐ-ST ngày 07/07/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN KẾ SÁCH, TỈNH SÓC TRĂNG

 BẢN ÁN 61/2021/HNGĐ-ST NGÀY 07/07/2021 VỀ TRANH CHẤP HÔN NHÂN GIA ĐÌNH

Ngày 07 tháng 7 năm 2021 tại Trụ sở Tòa án nhân dân huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng xét xử sơ thẩm công khai vụ án “Tranh chấp hôn nhân và gia đình” thụ lý số 174/2021/TLST-HNGĐ, ngày 13 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 159/2021/QĐXXST-HNGĐ ngày 31 tháng 5 năm 2021, và Quyết định Hoãn phiên tòa số 153/2021/QĐST-HNGĐ, ngày 22 tháng 6 năm 2021, giữa các đương sự:

Nguyên đơn: Cao Thanh T, địa chỉ: XX, ấp H, xã X, huyện K, tỉnh Sóc Trăng

Bị đơn: Nguyễn Văn L, địa chỉ: XX, ấp H, xã X, huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Trong đơn khởi kiện ngày 12 tháng 4 năm 2021 và các lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn bà Cao Thanh T trình bày: Giữa nguyên đơn với bị đơn là ông Nguyễn Văn L kết hôn với nhau trên tinh thần tự nguyện từ năm 1995, sau đó có đi đăng ký kết hôn tại UBND xã X, huyện K, tỉnh Sóc Trăng theo giấy chứng nhận kết hôn cấp ngày 03 tháng 6 năm 2009. Vợ chồng có 02 con chung là cháu Nguyễn Hoàng M sinh năm 1995 và Nguyễn Thị Anh T1 sinh ngày 06/3/2003. Quá trình chung sống do ông L không lo làm ăn, không quan tâm đến vợ con, nên luôn phát sinh mâu thuẫn vợ chồng, làm cho cuộc sống chung không có hạnh phúc, không thể hàn gắn để tiếp tục cuộc hôn nhân. Nay bà T yêu cầu ly hôn ông L; về con chung có 02 cháu đã trên tuổi thành niên và tự lập được cuộc sống nên bà T không yêu cầu giải quyết; về tài sản chung và nợ, bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Đối với bị đơn là ông Nguyễn Văn L, Tòa án đã gửi Thông báo thụ lý vụ án và các văn bản tố tụng cho ông L nhưng ông L không có ý kiến trả lời, cũng không đến Tòa án để cung cấp lời khai và tham gia các phiên hòa giải.

Ý kiến của Viện Kiểm sát: Kiểm sát viên tham gia phiên tòa nhận xét về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của những người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý vụ án cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án nhìn chung đều thực hiện đúng theo các quy định của pháp luật về tố tụng dân sự; đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Ông Nguyễn Văn L là bị đơn mặc dù đã được Tòa án triệu tập hợp lệ để tham dự phiên tòa đến lần thứ hai nhưng vẫn vắng mặt, nên Hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử vụ án, theo quy định tại Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

[2] Xét về quan hệ hôn nhân, bà T và ông L xác lập quan hệ vợ chồng có đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật, nên hôn nhân của ông bà là hợp pháp. Trong quá trình chung sống, bà T nhận thấy vợ chồng có nhiều mâu thuẫn do gần đây ông L không chí thú làm ăn, không quan tâm gia đình, vợ con, thường xuyên gây gỗ nhau và cuộc sống chung không còn hạnh phúc, nên bà T yêu cầu ly hôn. Riêng về phía ông L, Tòa án đã triệu tập tham dự các phiên hòa giải ông đều vắng mặt; cháu Nguyễn Hoàng M sinh năm 1995 là con chung của bà T, ông L cho biết các lần Tòa án gửi văn bản tố tụng cho ông L thì cháu M nhận thay do ông L thường vắng nhà, sau đó có giao lại tận tay ông L nhưng ông L đã xé hết và nói sẽ không đến Tòa án. Điều này cho thấy Tòa án đã tạo điều kiện thuận lợi để vợ chồng có cơ hội hàn gắn, đoàn tụ, nhưng ông L tỏ ra không quan tâm đến, không có thiện chí hợp tác. Hội đồng xét xử thấy rằng, quan hệ hôn nhân phải được xây dựng trên cơ sở tự nguyện của hai bên, nay bà T kiên quyết yêu cầu ly hôn, ông L thì không có thiện chí hợp tác để hàn gắn. Xét thấy mục đích hôn nhân của ông bà không đạt được, cuộc sống chung không thể kéo dài nên Hội đồng xét xử cần áp dụng Điều 56 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 chấp nhận yêu cầu ly hôn của bà T.

[3] Về con chung: Bà T và ông L có 02 người con chung nhưng hiện nay đều đã trên tuổi thành niên, tự lập được cuộc sống, nên Tòa án không xem xét.

[4] Về tài sản chung và nợ: Bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết, ông L không có yêu cầu phản tố, nên Hội đồng xét xử không đặt ra xem xét.

[5] Ý kiến của đại diện Viện Kiểm sát là có căn cứ và phù hợp với nhận định của Hội đồng xét xử nên được chấp nhận.

[6] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn theo quy định tại khoản 4 Điều 147 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

[7] Về quyền kháng cáo của đương sự được thực hiện theo quy định tại các Điều 271 và 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, các Điều 147, 228, 271 và Điều 273 của Bộ luật Tố tụng dân sự;

Căn cứ các Điều 51, 56 của Luật Hôn nhân và Gia đình;

Căn cứ điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án, Tuyên xử:

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn trong vụ án ly hôn và được giải quyết như sau:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Cao Thanh T được ly hôn ông Nguyễn Văn L.

- Về con chung: Các cháu Nguyễn Hoàng M và Nguyễn Thị Anh T1 đã trên tuổi thành niên và tự lập được cuộc sống nên Tòa án không xem xét.

- Về tài sản chung và nợ: Các đương sự không yêu cầu Tòa án giải quyết nên không đặt ra xem xét.

2. Về án phí: Bà Cao Thanh T phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn là 300.000 đồng, được khấu trừ hết vào số tiền tạm ứng án phí bà T đã nộp 300.000 đồng theo Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số 0009784, ngày 12/4/2021 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện K, tỉnh Sóc Trăng.

3. Các đương sự có quyền làm đơn kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt tại phiên tòa hoặc không có mặt khi tuyên án mà có lý do chính đáng thì thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản án hoặc được tống đạt hợp lệ.

Trường hợp Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và Điều 9 của Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

 Bản án 61/2021/HNGĐ-ST ngày 07/07/2021 về tranh chấp hôn nhân gia đình

Số hiệu:61/2021/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Kế Sách - Sóc Trăng
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 07/07/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về