Bản án 61/2019/HS-ST ngày 10/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 6, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 61/2019/HS-ST NGÀY 10/07/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 10 tháng 7 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 87/2019/TLST-HS ngày 17 tháng 6 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 82/2019/QĐXXST-HS ngày 26 tháng 6 năm 2019 đối với bị cáo:

Nguyễn Ngọc S (tên gọi khác là Lê Văn H); Sinh năm: 1955; Tại: Tỉnh Ninh Thuận; Thường trú: Không xác định; Nghề nghiệp: Không; Trình độ văn hóa: Không biết chữ; Dân tộc: Kinh; Giới tính: Nam; Tôn giáo: Không; Quốc tịch: Việt Nam; Con ông: Nguyễn Ngọc M (chết) và bà: Trần Thị K (chết); Có vợ: Không và con: Không; Tiền án: Ngày 22/12/2017, bị Tòa án nhân dân Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội «Trộm cắp tài sản» (Bản án số: 229/2017/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 06/8/2018 (Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số: 553/GCN của Trại giam Phước Hòa). Chưa chấp hành xong án phí hình sự sơ thẩm (Công văn trả lời xác minh số: 134/CCTHADS ngày 22/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự Quận 12, Thành phố Hồ Chí Minh); Tiền sự: Không; Bị bắt, tạm giam ngày 04/3/2019.

Nhân thân:

- Ngày 15/3/1977, bị Tòa án nhân dân thị xã Phan Rang, tỉnh Thuận Hải xử phạt 24 tháng tù về tội «Trộm tài sản riêng của công dân» (Bản án số: 04).

- Ngày 17/5/1979, bị Tòa án nhân dân huyện Ninh Hải, tỉnh Thuận Hải xử phạt 24 tháng tù về tội «Trộm tài sản riêng của công dân» (Bản án số: 26/HS- ST).

- Ngày 08/5/1987, bị Tòa án nhân dân tỉnh Thuận Hải xử phạt 04 năm tù về tội «Lừa đảo để chiếm đoạt tài sản riêng của công dân» và 01 năm tù về tội «Trốn khỏi nơi giam» (Bản án số: 19).

- Ngày 21/4/1998, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xử phạt 08 năm tù về tội «Trộm cắp tài sản của công dân» (Bản án số: 36/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 28/6/2004 (Giấy chứng nhận chấp hành xong hình phạt tù số: 593/2004/GCN của Trại giam Thủ Đức).

- Ngày 26/11/2004, bị Tòa án nhân dân huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 09 tháng tù về tội «Trộm cắp tài sản» (Bản án số: 151/HSST).

- Ngày 28/02/2006, bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm tù về tội «Trộm cắp tài sản» (Bản án số: 18/2006/HSST). Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị và ngày 09/5/2006, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chấp nhận kháng nghị, sửa bản án sơ thẩm và tuyên phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù (Bản án số 228/2006/HSPT).

- Ngày 26/9/2008, bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 05 năm tù về tội «Trộm cắp tài sản» (Bản án số: 249/2008/HSST). Chấp hành xong hình phạt tù ngày 23/9/2012 và hình phạt bổ sung ngày 07/4/2009 (Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt tù số: 517/GCN-CHXHPT của Trại giam Châu Bình và Công văn số: 981/CCTHADS ngày 25/4/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự quận Tân Phú, Thành phố Hồ Chí Minh). (có mặt)

- Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Ngọc S: Ông Huỳnh Tấn Đ - Trợ giúp viên Trung tâm Trợ giúp pháp lý Nhà nước thuộc Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh. (có mặt)

- Bị hại: Bà Trần Ngọc Thùy L; Sinh năm: 1988; Thường trú: 557A/C6 đường NTP, Phường N, Quận J, Thành phố Hồ Chí Minh; Chỗ ở: 192 đường PĐS, Phường P, Quận H, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án: Bà Lương Huệ T; Sinh năm: 1982; Trú tại: 43/2 đường TT, Phường N, Quận J, Thành phố Hồ Chí Minh. (vắng mặt)

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Với ý định đi tìm tài sản chiếm đoạt bán lấy tiền tiêu xài, khoảng 09 giờ ngày 04/3/2019, Nguyễn Ngọc S đi bộ lòng vòng trong khu vực đường HB tìm tài sản. Khi đi ngang nhà số 709 đường HB, Phường F, Quận F, S phát hiện có 01 chiếc xe gắn máy (loại xe Wave S, S màu xanh, biển số 52U1-8789) của bà Trần

Ngọc Thùy L đang dựng trước nhà này. Quan sát thấy không có người trông coi, S liền đi đến dùng bộ đoản (giấu sẵn trong người) bẻ ổ khóa rồi quay đầu xe ra hướng đường HB định tẩu thoát thì bị bà L phát hiện tri hô cùng những người xung quanh đuổi theo bắt giữ giao Công an Phường 6, Quận 6 giải quyết.

Tại Công an Phường 6, Quận 6 cũng như tại Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Nguyễn Ngọc S đều khai nhận thực hiện hành vi nêu trên.

Bị hại và người làm chứng khai cũng tương tự.

Tại Văn bản số: 284/TCKH ngày 05 tháng 3 năm 2019, Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự Quận 6 thống nhất giá như sau: 01 xe mô tô hiệu Honda Wave S 110, màu xanh, biển số: 52U1-8789, số khung Y085126, số máy HC09E-0085246 (xe mua cũ năm 2017), có giá là: 8.000.000 đồng.

Tại Cáo trạng số: 78/CT-VKS ngày 17 tháng 6 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh đã truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc S về tội «Trộm cắp tài sản» theo khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Ngọc S khai nhận chính bị cáo đã thực hiện hành vi dùng đoản bẻ ổ khóa công tắc lấy trộm chiếc xe gắn máy (loại xe loại xe Wave S, S màu xanh, bị cáo không nhớ biển số) của bà Trần Ngọc Thùy L tại trước nhà số 709 đường HB, Phường F, Quận F vào khoảng 09 ngày 04/3/2019 và bị bắt quả tang như nội dung bản cáo trạng nêu.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 6 giữ nguyên quyết định truy tố bị cáo Nguyễn Ngọc S như bản cáo trạng và sau khi phân tích tính chất, mức độ hành vi phạm tội, nhân thân của bị cáo cùng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử:

Phạt bị cáo Nguyễn Ngọc S từ 02 năm đến 03 năm tù về tội «Trộm cắp tài sản» theo khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm h, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

Không phạt tiền đối với bị cáo, do bị cáo không có khả năng thi hành.

Về bồi thường thiệt hại: Bà Trần Ngọc Thùy L đã nhận lại tài sản và không yêu cầu bồi thường, nên không đề nghị giải quyết.

Về xử lý vật chứng: Tịch thu, tiêu hủy: 01 thanh kim loại màu đen, đầu nhọn hình dẹp dài khoảng 5cm, đuôi dạng lục giác; 01 thanh kim loại màu trắng hình trụ dài 11cm, có gắn 01 đầu kim loại màu trắng hình trụ; 01 đoạn kim loại hình trụ màu trắng, một đầu hình vuông, còn lại hình lục giác dài khoảng 2,5cm.

Trả lại bị cáo Nguyễn Ngọc S 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung, vỏ màu đen, số Imei: 359752/07/048307/1; 02 sim điện thoại (01 sim có số seri: 89840480000478900030, 01 sim có số seri: 8984050918) và số tiền 6.700.000 đồng.

Đối với 01 Giấy Chứng minh nhân dân số 264009832 (mang tên Nguyễn Ngọc S), đề nghị giao Công an Quận 6 để xử lý theo thẩm quyền.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Ngọc S đồng ý với tội danh và điều luật mà Viện kiểm sát đã truy tố đối với bị cáo cũng như các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà Viện kiểm sát đề nghị áp dụng đối với bị cáo. Ngoài ra, người bào chữa đề nghị Hội đồng xét xử xem xét bị cáo có hoàn cảnh hết sức khó khăn, không nơi nương tựa, bản thân già yếu và bệnh nặng (hiện đang điều trị bệnh lao tại Bệnh viện Chí Hòa) để xử phạt bị cáo một mức án dưới mức đề nghị thấp nhất của Viện kiểm sát nhằm thể hiện sự khoan hồng của pháp luật và tạo điều kiện cho bị cáo có cơ hội làm lại cuộc đời.

Đại diện Viện kiểm sát bảo lưu lời luận tội và không tranh luận; người bào chữa bảo lưu lời bào chữa.

Bị cáo Nguyễn Ngọc S không tranh luận và cũng không nói lời sau cùng.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi và quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an Quận 6, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân Quận 6, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo; bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đối chiếu lời khai của bị cáo Nguyễn Ngọc S tại phiên tòa với Biên bản bắt người phạm tội quả tang; Biên bản tạm giữ đồ vật, tài liệu; lời khai của bị hại Trần Ngọc Thùy L và của người làm chứng tại Cơ quan điều tra cùng những tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận bị cáo Nguyễn Ngọc S với ý định phạm tội có từ trước, đã lén lút dùng đoản bẻ ổ khóa công tắc chiếm đoạt của bà Trần Ngọc Thùy L 01 chiếc xe gắn máy hiệu Honda Wave S 110, màu xanh, biển số: 52U1-8789, số khung Y085126, số máy HC09E- 0085246 (xe mua cũ năm 2017) trị giá 8.000.000 đồng, là phạm tội «Trộm cắp tài sản». Tội phạm và hình phạt được quy định tại khoản 1 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, đúng như Viện kiểm sát đã truy tố.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Ngọc S không những đã xâm phạm đến tài sản của người khác được pháp luật bảo vệ mà còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình an ninh, trật tự ở địa phương, gây hoang mang lo sợ trong quần chúng nhân dân.

Bị cáo Nguyễn Ngọc S là người đã trưởng thành, hoàn toàn có đủ khả năng nhận thức được hành vi cũng như hậu quả do hành vi của bị cáo gây ra, nhưng do tham lam, lười lao động, chỉ vì muốn có tiền tiêu xài mà bị cáo đã bất chấp pháp luật, cố tình thực hiện hành vi phạm tội nêu trên, nên bị cáo phải chịu trách nhiệm hình sự về hành vi phạm tội của mình.

[3] Bị cáo Nguyễn Ngọc S có 01 tiền án về tội chiếm đoạt tài sản (ngày 22/12/2017, bị Tòa án nhân dân Quận 12 xử phạt 01 năm tù về tội «Trộm cắp tài sản»), chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý là tái phạm. Đây là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 của của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017. Ngoài ra, bị cáo còn có nhân thân rất xấu, đó là ngày 15/3/1977, bị Tòa án nhân dân thị xã Phan Rang, tỉnh Thuận Hải xử phạt 24 tháng tù về tội «Trộm tài sản riêng của công dân»; ngày 17/5/1979, bị Tòa án nhân dân huyện Ninh Hải, tỉnh Thuận Hải xử phạt 24 tháng tù về tội «Trộm tài sản riêng của công dân»; ngày 08/5/1987, bị Tòa án nhân dân tỉnh Thuận Hải xử phạt 04 năm tù về tội «Lừa đảo để chiếm đoạt tài sản riêng của công dân» và 01 năm tù về tội «Trốn khỏi nơi giam»; ngày 21/4/1998, bị Tòa án nhân dân tỉnh Bình Thuận xử phạt 08 năm tù về tội «Trộm cắp tài sản của công dân»; ngày 26/11/2004, bị Tòa án nhân dân huyện Củ Chi xử phạt 09 tháng tù về tội «Trộm cắp tài sản»; ngày 28/02/2006, bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú xử phạt 01 năm tù về tội «Trộm cắp tài sản». Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh kháng nghị và ngày 09/5/2006, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh chấp nhận kháng nghị, sửa bản án sơ thẩm và tuyên phạt bị cáo 01 năm 06 tháng tù; ngày 26/9/2008, bị Tòa án nhân dân quận Tân Phú xử phạt 05 năm tù về tội «Trộm cắp tài sản». Mặc dù lần phạm tội này bị cáo đã được đương nhiên xóa án tích thì coi như chưa bị kết án, nhưng điều này cũng cho thấy tuy đã được cải tạo, giáo dục, bị cáo vẫn không chịu rèn luyện, tu dưỡng để trở thành người công dân có ích cho xã hội mà ngược lại vẫn tiếp tục sống buông thả để ngày càng lún sâu vào con đường phạm tội hết lần này đến lần khác.

[4] Xét tính chất mức độ hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Ngọc S tuy thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, nhưng hành vi phạm tội của bị cáo đã hoàn thành, việc bị phát hiện và thu giữ lại tài sản là hoàn toàn ngoài ý muốn của bị cáo, do đó Hội đồng xét xử thấy cần phạt bị cáo một mức án nghiêm khắc tương xứng mới có tác dụng giáo dục đối với bị cáo và để phòng ngừa chung. Tuy nhiên, xét bị cáo phạm tội nhưng gây thiệt hại không lớn (tài sản đã được thu hồi trả bị hại) và được bị hại bãi nại; tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa đều có thái độ thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bản thân đang bệnh nặng, nên Hội đồng xét xử chấp nhận đề nghị của Viện kiểm sát và của người bào chữa là cho bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại các điểm h, s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

[5] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 173 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017, thì bị cáo Nguyễn Ngọc S còn có thể bị phạt tiền từ 05 triệu đồng đến 50 triệu đồng. Xét bị cáo không có khả năng thi hành, nên Hội đồng xét xử không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

[6] Việc bồi thường thiệt hại: Bị hại Trần Ngọc Thùy L đã nhận lại tài sản là 01 chiếc xe gắn máy biển số 52U2-8789, nhãn hiệu Honda Wave màu xanh (theo Biên bản về việc trả lại đồ vật, tài liệu ngày 12/9/2019 - BL76) mà không có ý kiến hay yêu cầu gì về phần bồi thường và đồng ý bãi nại cho bị cáo Nguyễn Ngọc S (theo Đơn xin bãi nại ngày 02/7/2019), do đó Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.

[7] Việc xử lý vật chứng: 01 thanh kim loại màu đen, đầu nhọn hình dẹp dài khoảng 5cm, đuôi dạng lục giác; 01 thanh kim loại màu trắng hình trụ dài 11cm, có gắn 01 đầu kim loại màu trắng hình trụ; 01 đoạn kim loại hình trụ màu trắng, một đầu hình vuông, còn lại hình lục giác dài khoảng 2,5cm thu giữ của bị cáo Nguyễn Ngọc S, là vật không có giá trị hoặc không sử dụng được, nên Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Còn 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung, vỏ màu đen, số Imei: 359752/07/048307/1; 02 sim điện thoại (01 sim có số seri: 89840480000478900030, 01 sim có số seri: 8984050918) và số tiền 6.700.000 đồng. Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát đề nghị trả lại cho bị cáo vì không đủ căn cứ xác định do bị cáo phạm tội mà có hoặc bị cáo sẽ sử dụng vào việc phạm tội. Xét đề nghị của Viện kiểm sát là có cơ sở, nên Hội đồng xét xử chấp nhận theo quy định tại khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Đối với 01 Giấy Chứng minh nhân dân số 264009832 (mang tên Nguyễn Ngọc S), Hội đồng xét xử giao lại Công an Quận 6 để xử lý theo thẩm quyền. (theo Phiếu nhập kho vật chứng số: 52/PNK ngày 30 tháng 5 năm 2019 của Công an Quận 6 - BL161)

[8] Bị cáo Nguyễn Ngọc S phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định tại Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

- Tuyên bố bị cáo Nguyễn Ngọc S (Lê Văn H) phạm tội: «Trộm cắp tài sản».

- Căn cứ khoản 1 Điều 173; điểm h khoản 1 Điều 52; điểm h, điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 và Điều 50 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc S (Lê Văn H) 02 (hai) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/3/2019.

- Căn cứ điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 và điểm a, điểm c khoản 2 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu, tiêu hủy: 01 (một) thanh kim loại màu đen, đầu nhọn hình dẹp dài khoảng 5cm, đuôi dạng lục giác; 01 (một) thanh kim loại màu trắng hình trụ dài 11cm, có gắn 01 (một) đầu kim loại màu trắng hình trụ; 01 (một) đoạn kim loại hình trụ màu trắng, một đầu hình vuông, còn lại hình lục giác dài khoảng 2,5cm.

- Căn cứ khoản 3 Điều 106 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015.

Trả lại bị cáo Nguyễn Ngọc S 01 (một) chiếc điện thoại di động hiệu Samsung, vỏ màu đen, số Imei: 359752/07/048307/1; 02 (hai) sim điện thoại (01 sim có số seri: 89840480000478900030, 01 sim có số seri: 8984050918) và 6.700.000 (sáu triệu bảy trăm ngàn) đồng.

Giao lại Công an Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh 01 (một) Giấy Chứng minh nhân dân số 264009832 (mang tên Nguyễn Ngọc S) để xử lý theo thẩm quyền.

- Căn cứ Điều 135 của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Nghị quyết số: 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Bị cáo Nguyễn Ngọc S phải chịu 200.000 (hai trăm ngàn) đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người phải thi hành án dân sự có quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại Điều 7 và Điều 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

- Bị cáo Nguyễn Ngọc S có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Đối với bị hại; người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày được tống đạt hoặc niêm yết bản án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

304
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2019/HS-ST ngày 10/07/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:61/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 6 - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 10/07/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về