Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 61/2019/HS-ST

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ PHỦ LÝ - TỈNH HÀ NAM

BN ÁN 61/2019/HS-ST NGÀY 04/06/2019 VỀ TỘI TỔ CHỨC SỬ DỤNG TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 04 tháng 6 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 46/2019/TLST-HS ngày 28 tháng 3 năm 2019, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 63/2019/QĐXXST-HS ngày 06 tháng 5 năm 2019 và Quyết định hoãn phiên tòa số: 17/2019/HSST-QĐ ngày 17 tháng 5 năm 2019, đối với bị cáo:

Nguyễn Hoàng K, sinh năm 1991; Nơi ĐKNKTT, chỗ ở: Thôn LL, xã PV, thành phố PL, tỉnh Hà Nam; nghề nghiệp: Lao động T4 do; trình độ văn hóa: 9/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; con ông: Nguyễn Đình K1, sinh năm 1966; con bà: Lâm Thị L1, sinh năm 1967; vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không; bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 15/11/2018 đến nay. Có mặt tại phiên tòa.

* Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án:

1/ Anh Nguyễn Ngọc T1, sinh năm 1995; trú tại: Số nhà 45, tổ 3, phường LK T1, thành phố PL, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

2/ Anh Nguyễn Quốc L, sinh năm 1998; trú tại: Thôn LL, xã PV, thành phố PL, tỉnh Hà Nam. Có mặt.

3/ Anh Bùi Quốc Gi, sinh năm 1995; trú tại: Thôn LL, xã PV, thành phố PL, tỉnh Hà Nam. Có mặt.

4/ Cháu Lại Hồng D, sinh ngày 25/6/2001; trú tại: Thôn TB, xã TH, huyện VT, tỉnh Thái Bình; người đại diện theo pháp luật của cháu Lại Hồng D là bà Nguyễn Thị P, sinh năm 1968; trú tại: Thôn TB, xã TH, huyện VT, tỉnh Thái Bình. Vắng mặt.

5/ Anh Vũ Trọng Đ, sinh năm 1991; trú tại: Thôn M.A, xã VH, huyện VT, tỉnh Thái Bình. Có mặt.

6/ Chị Đỗ Phương T2, sinh ngày 27/3/2001; trú tại: Xóm MT, xã MH, huyện QH, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

7/ Chị Lữ Thị Hương Q, sinh năm 1999; trú tại: Khối 1, thị trấn KS, huyện QP, tỉnh Nghệ An. Vắng mặt.

8/ Cháu Hà Thu T3, sinh ngày 20/8/2003; trú tại: Khu 5, thị trấn TL, huyện TL, thành phố Hải Phòng; người đại diện theo pháp luật của cháu Hà Thu T3 là bà Nguyễn Thị R, sinh năm 1961; trú tại: Khu 5, thị trấn TL, huyện TL, thành phố Hải Phòng. Vắng mặt.

9/ Ông Nguyễn Văn T4, sinh năm 1962; trú tại: Số nhà 155, phố NTD, phường TB, thành phố HD, tỉnh Hải Dương. Vắng mặt.

10/ Ông Nguyễn Đình K1, sinh năm 1966; trú tại: Thôn LL, xã PV, thành phố PL, tỉnh Hà Nam. Có mặt.

11/ Anh Đặng Quang D1, sinh năm 1991; trú tại: tổ 4, phường LHP, thành phố PL, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

* Người làm chứng: Anh Nguyễn Nam H, sinh năm 1996; nơi ĐKNKTT: Tiểu khu 14, thị trấn MC, huyện MC, tỉnh Sơn La; chỗ ở: Thôn K, xã TT, thành phố PL, tỉnh Hà Nam. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 19 giờ, ngày 14/11/2018, Nguyễn Ngọc T1, Nguyễn Quốc L, Bùi Quốc Gi, Nguyễn Hoàng K, Lại Hồng D và một số bạn khác đến nhà hàng Kiều Gia ở tổ 1, phường Lê Hồng Phong, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam để ăn liên hoan mừng sinh nhật của T1. Đến khoảng 20 giờ cùng ngày thì Vũ Trọng Đ cùng bạn gái là Đỗ Phương T2 đến cùng tham gia liên hoan. Sau khi ăn xong, T1 mời các bạn đi hát tại quán Karaoke Bách Sáu ở phường Lê Hồng Phong, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Sau đó, khoảng 22 giờ cùng ngày thì K điều khiển xe ô tô nhãn hiệu CHEVROLET, BKS 17C-106.46 của Đ chở theo T1, D, Đ và T2 đi tới khách sạn LAGA thuộc tổ 1, phường Minh Khai, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam thuê phòng để nghỉ. Tại đây, Đ thuê phòng số 402, K thuê phòng số 406. Sau khi thuê được phòng cả nhóm đến phòng 402 ngồi chơi, K gọi điện thoại cho L và Gi đến phòng 402 khách sạn LAGA để chơi cùng. Sau đó T1 nói “Hôm nay sinh nhật mình, muốn mua ít kẹo tổ chức cho anh em chơi cho vui, không phải tiếc tiền đâu nhưng hôm nay chỉ chơi ít kẹo thôi, trong túi mình còn mỗi mấy trăm”. Nghe T1 nói vậy cả nhóm đều đồng ý, D nói “Lấy đủ thôi, đừng lấy thừa, em không chơi đâu”. Đ hỏi cả nhóm “Mọi người cũng chơi món này à”, K nói “Vui thì anh em làm một tý”, Đ bảo “Không có ke không chịu được đâu, lấy thêm nửa chỉ ke nữa”, nghe vậy cả nhóm đều đồng ý. T1 lấy ra 500.000đ đưa cho L và nói “Cầm tiền đi lấy hàng về cho anh em chơi”, thấy vậy Đ cũng lấy ra 3.000.000đ đưa cho L và nói “Anh cũng góp thêm một ít, cầm thêm chỗ này mà mua về để anh em chơi cho đã”. Lúc này, T1 nói với K “Định dùng phòng 406 để sử dụng ma túy nhưng hơi chật, thuê phòng khác rộng hơn để tổ chức sử dụng ma túy”, K bảo “Để anh xuống bảo lễ tân đổi phòng rộng hơn”. K đi xuống quầy lễ tân gặp nhân viên lễ tân khách sạn LAGA là Nguyễn Nam H và nói “Em ơi đổi cho anh từ phòng 406 sang phòng khác rộng hơn”. Sau đó, H đổi cho K từ phòng 406 sang phòng 507, K cầm thẻ phòng 507 quay lại phòng 402 và bảo cả nhóm “Anh em chuyển lên phòng 507 chơi cho rộng”, rồi cả nhóm đi lên phòng 507. L cầm tiền đi mua ma túy thì gặp Gi và nói “Anh đi cùng em mua mấy chai nước”, L điều khiển xe mô tô BKS 90B1-829.99 của K chở Gi đi mua ma túy. Trên đường đi L nói với Gi “Anh xuống đứng chờ em đi lấy đồ về”, Gi xuống quán nước ven đường ngồi đợi, còn L điều khiển xe mô tô đi đến khu vực ngã tư cầu Phủ Lý thuộc tổ dân phố Hồng Phú, phường Thanh Châu, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam gặp một người đàn ông khoảng 35 tuổi (không rõ nhân thân, lai lịch) nói “Anh có lấy được kẹo, ke không, anh lấy cho em bẩy viên kẹo và nửa chỉ ke”. Người đàn ông này bảo “Anh lấy được”, L đưa cho người đàn ông số tiền 3.500.000đ, người đàn ông cầm tiền đi một lúc sau quay lại đưa cho L 01 túi nilon màu trắng bên trong có chứa 07 viên nén hình tròn màu xanh và 02 túi nilon màu trắng, bên trong cả 02 túi đều có chứa chất tinh thể màu trắng. L đoán đây là 07 viên ma túy loại kẹo và 02 túi ma túy loại ke nên cầm rồi điều khiển xe mô tô quay lại đón Gi. Trên đường đi về khách sạn LAGA, L dừng xe vào cửa hàng tạp hóa ven đường mua một chiếc đĩa hình tròn màu trắng, 01 bật lửa ga để mang về sử dụng ma túy. Khi L và Gi về phòng 507 khách sạn LAGA, L cầm toàn bộ số ma túy mua được cùng đĩa và bật lửa để trên mặt bàn trong phòng và nói “Kẹo, ke đây ai chơi ra mà lấy”. Lúc này Đ, T2, T1, D, Gi và L mỗi người lấy một viên ma túy loại „kẹo” để sử dụng bằng cách cho vào miệng rồi dùng nước lọc, nước ngọt để uống, còn K không sử dụng ma túy loại “kẹo”.

Trong lúc sử dụng ma túy, Đ bảo L xuống xe ô tô lấy loa lên để bật nhạc mục đích sử dụng ma túy cho phê. L đi xuống dưới xe ô tô của Đ mang loa lên, Đ cắm loa bật máy tính Laptop mở nhạc sàn. Lúc này T1 nói “Không có đèn thì không chơi được đâu”. Thấy vậy, K bảo L đến quán cafe Over Night của Đặng Quang D1 ở tổ 4, phường Lê Hồng Phong, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam thuê đèn nháy Laser. Sau khi thuê bộ đèn nháy Laser, L mang về phòng 507 cắm điện nháy chớp để mọi người nhảy nhót sử dụng ma túy. Tại phòng 507, K đổ ma túy ở một túi nilon vào đĩa tròn và lấy tờ tiền polime mệnh giá 10.000đ cuộn thành hình ống nhỏ và bọc vỏ đầu lọc điếu thuốc lá. Sau đó, K lấy 01 tấm thẻ cứng VinGroup để rằm vụn ma túy và chia nhỏ số ma túy trên đĩa rồi dùng bật lửa đốt dưới đáy đĩa cho ma túy trên đĩa sứ nóng lên, phục vụ cả nhóm sử dụng bằng cách hít ma túy vào mũi qua ống tiền K đã cuộn sẵn. Mọi người trong phòng gồm Đ, T1, D, Gi và T2 đều sử dụng ma túy do K chuẩn bị sẵn, còn K không sử dụng. Khi L mang bộ đèn nháy Laser về thì L cũng sử dụng ma túy cùng mọi người. Lúc này cả nhóm trong phòng 507 bật nhạc, đèn nháy để sử dụng ma túy.

Khoảng 03 giờ sáng, ngày 15/11/2018, khi cả nhóm vẫn đang sử dụng ma túy thì L nói với K “Cho cháu mượn điện thoại rủ Q tới sử dụng ma túy”, K đồng ý và đưa máy điện thoại cho L. L nhắn tin cho bạn là Lữ Thị Hương Q với nội dung “Lên phòng 507 khách sạn LAGA chơi với anh”. Nhận được tin nhắn Q nghĩ K rủ Q tới sử dụng ma túy nên đồng ý và nhắn tin hỏi lại “Có cần thêm người không”, L trả lời “Thêm một người nữa”. Lúc này, Q đang ở phòng trọ cùng Hà Thu T3 nên Q nói với T3 “Đi tiếp khách với chị ở khách sạn LAGA”, T3 đồng ý. Sau đó Q và T3 đi xe taxi đến khách sạn LAGA lên phòng 507. Thấy Q và T3 tới, L đưa cho Q 01 viên ma túy dạng kẹo và nói “Em chơi kẹo đi”. Q cầm viên ma túy kẹo cho vào miệng rồi uống nước. Lúc này K nói với Q và T3 “Hai em ngồi xuống đây chơi với mọi người cho vui”, Q và T3 cùng sử dụng ma túy loại ke do K đổ ra đĩa bằng cách hít vào mũi. Sau đó T1 và D đi xuống phòng 402 của khách sạn LAGA ngủ.

Đến khoảng 04 giờ 30 phút cùng ngày tại phòng 507 khách sạn LAGA khi K, Đ, L, Gi, Q, T2, T3 đang tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy thì bị tổ công tác Công an thành phố Phủ Lý phối hợp tổ công tác phòng PC06 Công an tỉnh Hà Nam phát hiện, bắt quả tang và đưa về trụ sở lập biên bản theo quy định của pháp luật.

* Vật chứng, đồ vật, tài sản thu giữ gồm:

- Thu giữ tại phòng 507 khách sạn LAGA:

+ Thu giữ dưới nền phòng giáp tường: 03 túi nilon màu trắng, trong đó có 01 túi nilon màu trắng bên trong chứa chất tinh thể màu trắng, 02 túi nilon màu trắng được niêm phong trong phong bì kí hiệu QT01.

+ Thu giữ trên mặt bàn cạnh đĩa màu trắng hình tròn: 01 túi nilon màu trắng bên trong bám dính chất tinh thể màu trắng được niêm phong trong phong bì kí hiệu QT02.

+ Thu giữ trên mặt bàn trong phòng: 01 đĩa men sứ màu trắng hình tròn trên mặt đĩa có bám dính chất tinh thể màu trắng, 01 tờ tiền polime mệnh giá 10.000đ được cuộn tròn hình ống có bám dính chất tinh thể màu trắng, 01 thẻ cứng có chữ VinGroup có bám dính chất tinh thể màu trắng được niêm phong trong hộp giấy hình vuông kí hiệu QT03.

- Thu giữ của Nguyễn Quốc L: 01 đèn nháy laze màu đen, 01 bật lửa ga màu tím, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu ghi.

- Thu giữ của Nguyễn Hoàng K: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đen BKS 90B1-829.99, 01 đăng ký xe máy số 075254, 01 thẻ căn cước công dân, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng và số tiền 2.400.000đ.

- Thu giữ của Đỗ Phương T2: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen.

- Thu giữ của Vũ Trọng Đ: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, 01 thẻ căn cước công dân, 01 xe ô tô nhãn hiệu CHEVROLET, BKS 17C-106.46, 01 giấy chứng nhận xe ô tô số 018967, 01 loa hình tròn màu đen, 01 máy tính xách tay Laptop màu trắng bạc, số tiền 250.000đ.

- Thu giữ của Hà Thu T3: Số tiền 570.000đ, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone.

- Thu giữ của Lữ Thị Hương Q: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám.

- Thu giữ của Nguyễn Ngọc T1: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng.

Ngày 15/11/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã phối hợp với Bệnh viện đa khoa Medlatec xét nghiệm mẫu nước tiểu của Nguyễn Hoàng K, Nguyễn Quốc L, Bùi Quốc Gi, Nguyễn Ngọc T1, Vũ Trọng Đ, Lại Hồng D, Đỗ Phương T2, Lữ Thị Hương Q, Hà Thu T3.

Kết quả Nguyễn Hoàng K, Hà Thu T3 âm tính với chất ma túy; Lại Hồng D, Nguyễn Quốc L, Lữ Thị Hương Q, Vũ Trọng Đ, Đỗ Phương T2, Nguyễn Ngọc T1, Bùi Quốc Gi dương tính với chất ma túy.

Tại bản Kết luận giám định số 963/GĐKTHS ngày 16/11/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Nam Định, kết luận:

- Mẫu tinh thể màu trắng trong 01 túi ni lông màu trắng được niêm phong trong phong bì kí hiệu QT01 gửi giám định là ma túy, loại ma túy: Ketamine. Khối lượng 0,138 gam.

- Không tìm thấy chất ma túy theo danh mục các chất ma túy do Chính phủ ban hành trong 02 túi nilon màu trắng được niêm phong kí hiệu QT01 gửi giám định.

- Mẫu tinh thể màu trắng bám dính trong 01 túi ni lông màu trắng được niêm phong ký hiệu QT02 và Mẫu tinh thể màu trắng bám dính trên: 01 đĩa hình tròn màu trắng (loại men sứ), 01 tờ tiền mệnh giá 10.000đ và 01 thẻ có chữ VinGroup được niêm phong ký hiệu QT03 gửi giám định đều là ma túy, loại ma túy: Ketamine.

Ngày 15/11/2018, Cơ quan Cảnh sát điều tra - Công an thành phố Phủ Lý đã ra Lệnh khám xét khẩn cấp số 01, 02, 03 đối với nơi ở của Nguyễn Hoàng K, Vũ Trọng Đ tại phòng 402, 507 khách sạn LAGA và thôn LL, xã PV, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Quá trình khám xét không thu giữ gì.

Từ những nội dung trên, bản cáo trạng số: 51/CT-VKS-PL ngày 26/3/2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đã truy tố Nguyễn Hoàng K, về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự.

* Tại phiên tòa sơ thẩm hôm nay:

- Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý luận tội: Giữ nguyên quan điểm truy tố bị cáo như đã nêu trong bản cáo trạng, không thay đổi, bổ sung gì thêm. Sau khi phân tích tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và nhân thân bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử:

+ Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 50 của Bộ luật Hình sự: Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng K từ 07 đến 08 năm tù, về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, không áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

+ Về xử lý vật chứng: Đề nghị áp dụng Điều 47 của Bộ luật Hình sự; Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Đề nghị trả lại Nguyễn Quốc L: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu ghi; trả lại Đặng Quang D1 01 đèn nháy laze màu đen; trả lại Nguyễn Hoàng K: 01 thẻ căn cước công dân và số tiền 2.400.000đ; trả lại Đỗ Phương T2: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen; trả lại Vũ Trọng Đ: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, 01 thẻ căn cước công dân và số tiền 250.000đ; trả lại Hà Thu T3: Số tiền 570.000đ, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone; trả lại Nguyễn Ngọc T1: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng.

Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đen BKS 90B1-829.99, 01 đăng ký xe máy số 075254, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng thu giữ của Nguyễn Hoàng K; 01 loa hình tròn màu đen, 01 máy tính xách tay Laptop màu trắng bạc thu giữ của Vũ Trọng Đ; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám thu giữ của Lữ Thị Hương Q và một tờ tiền polyme mệnh giá 10.000 đồng.

Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy cùng bao gói thu giữ tại hiện trường, 01 bật lửa ga màu tím, một đĩa hình tròn màu trắng, 01 thẻ cứng màu đen có chữ VinGroup.

- Bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi đã thực hiện tương T4 như bản cáo trạng đã truy tố và nhất trí với bản cáo trạng mà Viện kiểm sát đã công bố tại phiên tòa. Bị cáo không tranh luận bào chữa gì, nhất trí với kết luận giám định của cơ quan chuyên môn. Lời nói sau cùng bị cáo xin Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo và cho bị cáo xin lại chiếc xe mô tô làm phương tiện đi lại cho gia đình vì nguồn tiền mua xe là của bố bị cáo.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án anh Nguyễn Quốc L, Bùi Quốc Gi và Vũ Trọng Đ trình bày phù hợp với lời khai của bị cáo tại phiên tòa: Anh Nguyễn Quốc L, Bùi Quốc Gi và Vũ Trọng Đ đều thừa nhận có sử dụng ma túy tại khách sạn LAGA vào rạng sáng ngày 15/11/2018. Khi lực lượng công an phát hiện bắt quả tang có thu giữ tài sản, vật chứng của Nguyễn Quốc L, Vũ Trọng Đ như cáo trạng đã nêu. Nay đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giải quyết những tài sản bị thu giữ theo quy định của pháp luật.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án ông Nguyễn Đình K1 trình bày: Quá trình giải quyết vụ án, Cơ quan Công an có thu giữ của Nguyễn Hoàng K một xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đen BKS 90B1-829.99. Nguồn tiền mua chiếc xe mô tô là của ông, khi mua xe do ông không có giấy phép lái xe nên ông đã nhờ Nguyễn Hoàng K đứng tên hộ trong giấy đăng ký xe. Nay ông đề nghị cho ông xin lại chiếc xe mô tô làm phương tiện đi lại cho gia đình.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, trong quá trình điều tra, truy tố: Những người tiến hành tố tụng này đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không có người nào có ý kiến hoặc khiếu nại gì về hành vi, quyết định của người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Đánh giá về tội danh: Đối chiếu lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa với lời khai của bị cáo trong quá trình điều tra. Hội đồng xét xử thấy cơ bản phù hợp với nhau, phù hợp với biên bản bắt người phạm tội quả tang, lời khai của người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến vụ án, người làm chứng, kết luận giám định của cơ quan chuyên môn cũng như các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được cơ quan điều tra thu thập.

Như vậy, có đủ cơ sở kết luận: Khoảng 4 giờ 30 phút ngày 15/11/2018, tại phòng 507 khách sạn LAGA thuộc tổ 1, phường Minh Khai, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam do Nguyễn Hoàng K thuê; Nguyễn Hoàng K đã đổ ma túy loại Ketamine từ túi nilon vào đĩa tròn và lấy tờ tiền polime mệnh giá 10.000đ cuộn thành hình ống nhỏ và bọc vỏ đầu lọc điếu thuốc lá. Sau đó K lấy 01 tấm thẻ cứng VinGroup để rằm vụn ma túy và chia nhỏ số ma túy trên đĩa rồi dùng bật lửa đốt dưới đáy đĩa cho ma túy trên đĩa sứ nóng lên để cho các đối tượng Nguyễn Ngọc T1; Vũ Trọng Đ; Nguyễn Quốc L; Bùi Quốc Gi; Lữ Thị Hương Q; Hà Thu T3, sinh ngày 20/8/2003; Đỗ Phương T2, sinh ngày 27/3/2001; Lại Hồng D sinh ngày 25/6/2001 (là những người từ đủ 13 tuổi đến dưới 18 tuổi) sử dụng trái phép chất ma túy thì bị tổ công tác Công an thành phố Phủ Lý phối hợp tổ công tác phòng PC06 Công an tỉnh Hà Nam phát hiện bắt quả tang, thu giữ 0,138 gam ma túy, loại Ketamine.

Hành vi nêu trên của Nguyễn Hoàng K đã phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm b, c khoản 2 Điều 255 của Bộ luật Hình sự. Quan điểm truy tố của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phủ Lý đối với bị cáo như bản cáo trạng đã nêu là có căn cứ, phù hợp pháp luật.

[3] Đánh giá về tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi phạm tội: Hành vi phạm tội của bị cáo Nguyễn Hoàng K là nguy hiểm cho xã hội, hành vi đó đã xâm phạm trực tiếp đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước đối với các chất ma túy được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến tình hình trật T4 trị an tại địa phương, gây hoang mang lo lắng trong quần chúng nhân dân. Do vậy, cần xử lý bị cáo với mức hình phạt nghiêm tương xứng với hành vi phạm tội mà bị cáo đã gây ra.

[4] Đánh giá về hình phạt:

- Hình phạt chính: Khi lượng hình cũng cần cân nhắc đến các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của bị cáo để áp dụng hình phạt cho phù hợp:

Về nhân thân: Bị cáo có nhân thân tốt, chưa có tiền án tiền sự, phạm tội lần đầu.

 Về tình tiết tăng nặng: Bị cáo không phải chịu một tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nào.

Về tình tiết giảm nhẹ: Quá trình điều tra và tại phiên toà bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn, hối cải, bị cáo là lao động chính trong gia đình, ông bà nội bị cáo được tặng bảng gia đình vẻ vang có công với đất nước. Do vậy bị cáo được hưởng các tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Đánh giá tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và xem xét các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, cũng như nhân thân của bị cáo, Hội đồng xét xử thấy cần thiết phải áp dụng hình phạt nghiêm, cách ly bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian nhằm cải tạo, giáo dục bị cáo trở thành công dân có ích cho xã hội và phòng ngừa chung trong cộng đồng.

- Hình phạt bổ sung: Bị cáo thực hiện hành vi phạm tội không nhằm mục đích trục lợi cho bản thân, nên không cần thiết phải áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo.

[5] Về vật chứng:

Đối với 01 đèn nháy laze màu đen là tài sản do L thuê của anh Đặng Quang D1, anh D1 không biết L thuê nhằm mục đích sử dụng ma túy, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu ghi là tài sản hợp pháp của Nguyễn Quốc L không liên quan đến hành vi phạm tội. Do vậy cần trả lại L 01 đèn nháy laze màu đen để L trả lại anh Đặng Quang D1 theo hợp đồng thuê tài sản và trả lại 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu ghi cho L.

Đối với 01 thẻ căn cước công dân và số tiền 2.400.000đ thu giữ của Nguyễn Hoàng K; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen thu giữ của Đỗ Phương T2; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, 01 thẻ căn cước công dân và số tiền 250.000đ thu giữ của Vũ Trọng Đ; số tiền 570.000đ, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone thu giữ của Hà Thu T3; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng thu giữ của Nguyễn Ngọc T1. Đây là những tài sản hợp pháp của Nguyễn Hoàng K, Đỗ Phương T2, Vũ Trọng Đ, Hà Thu T3, Nguyễn Ngọc T1 không liên quan đến vụ án nên cần trả lại cho K, T2, Đ, T3, T1.

Đối với 01 xe ô tô nhãn hiệu CHEVROLET, BKS 17C-106.46, 01 giấy chứng nhận xe ô tô mang tên Vũ Trọng Đ là tài sản hợp pháp của Đ không liên quan đến vụ án, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã trả lại xe và giấy tờ xe cho Vũ Trọng Đ là phù hợp pháp luật.

Đối với 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đen BKS 90B1-829.99, 01 đăng ký xe mô tô số 075254, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng thu giữ của Nguyễn Hoàng K. Quá trình điều tra Nguyễn Hoàng K xác định chiếc xe là tài sản hợp pháp của K, nguồn tiền mua xe do K lao động mà có, đăng ký xe mang tên bị cáo. Mặt khác trong quá trình điều tra ông K1 (bố bị cáo) không có ý kiến gì đối với chiếc xe mô tô. Do vậy không có căn cứ xác định chiếc xe là tài sản của ông Nguyễn Đình K1 mà là tài sản hợp pháp của Nguyễn Hoàng K. Nguyễn Hoàng K sử dụng xe, điện thoại vào việc thực hiện hành vi phạm tội nên cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

Đối với 01 loa hình tròn màu đen, 01 máy tính xách tay Laptop màu trắng bạc thu giữ của Vũ Trọng Đ; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám thu giữ của Lữ Thị Hương Q. Đây là tài sản hợp pháp của Đ và Q, các đối tượng sử dụng liên quan đến hành vi phạm tội của Nguyễn Hoàng K nên cần tịch thu sung Ngân sách Nhà nước.

Đối với toàn bộ số ma túy cùng bao gói thu giữ tại hiện trường phòng 507 khách sạn LAGA, 01 bật lửa ga màu tím, một đĩa hình tròn màu trắng, 01 thẻ cứng màu đen có chữ VinGroup, 01 tờ tiền Polyme mệnh giá 10.000đ được cuộn lại. Đây là các công cụ sử dụng trực tiếp vào việc tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy đến nay không còn giá trị sử dụng nên cần tịch thu tiêu hủy.

[6] Về các vấn đề khác:

- Về nguồn gốc số ma túy đã thu giữ tại phòng 507 khách sạn LAGA, Nguyễn Quốc L khai mua của người đàn ông khoảng 35 tuổi, ở tổ dân phố Hồng Phú, phường Thanh Châu, thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam. Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý đã tiến hành xác minh nhưng không xác định được nhân thân, lai lịch của người bán ma túy cho L, nên không có căn cứ để xử lý trong vụ án này.

- Đối với ông Nguyễn Văn T4 là giám đốc khách sạn LAGA, đã không quản lý khách sạn, để cho các đối tượng Nguyễn Ngọc T1, Vũ Trọng Đ, Nguyễn Quốc L, Bùi Quốc Gi, Lữ Thị Hương Q, Hà Thu T3, Đỗ Phương T2, Lại Hồng D sử dụng chất ma túy trong khu vực mình quản lý. Do vậy Nguyễn Văn T4 đã bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố Phủ Lý ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính là phù hợp pháp luật.

- Đối với Nguyễn Ngọc T1 và Vũ Trọng Đ đã có hành vi trực tiếp góp tiền đưa cho Nguyễn Quốc L là người đi mua ma túy về sử dụng, bản thân L còn là người chuẩn bị công cụ, phương tiện phục vụ việc sử dụng trái phép chất ma túy (mua đĩa hình tròn, bật lửa, thuê đèn nháy Laze). Nguyễn Ngọc T1, Vũ Trọng Đ và Nguyễn Quốc L đều sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng 507 khách sạn LAGA. Căn cứ Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC- TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 thì Nguyễn Ngọc T1, Vũ Trọng Đ và Nguyễn Quốc L không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”. Trong vụ án này, quá trình điều tra thu giữ 0,138 gam ma túy, loại Ketamine, bản thân T1, L, Đ chưa từng bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy” hoặc bị kết án về các tội “Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển hoặc mua bán trái phép chất ma túy”. Do vậy không đủ yếu tố để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với T1, L, Đ về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Công an thành phố Phủ Lý đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với T1, L, Đ là phù hợp pháp luật.

- Đối với Bùi Quốc Gi cùng L đi mua ma túy; Bùi Quốc Gi, Lại Hồng D, Đỗ Phương T2, Lữ Thị Hương Q, Hà Thu T3 cùng tham gia sử dụng trái phép chất ma túy tại phòng 507 khách sạn Laga. Do vậy Công an thành phố Phủ Lý đã ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính về hành vi “Sử dụng trái phép chất ma túy” là phù hợp pháp luật.

[7] Về án phí hình sự sơ thẩm: Bị cáo nộp án phí theo quy định của pháp luật.

 [8] Về quyền kháng cáo: Bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án thực hiện quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên.

QUYẾT ĐỊNH

- Áp dụng điểm b, c khoản 2 Điều 255; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38; Điều 47; Điều 50 của Bộ luật Hình sự.

- Áp dụng các Điều 106; 136; 331; 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự.

- Áp dụng Luật Phí và lệ phí số 97/2015/QH13 ngày 25/11/2015 của Quốc hội và Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH 14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

[1] Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Hoàng K phạm tội “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy”.

[2] Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng K 07 (bẩy) năm tù, thời hạn tù tính từ ngày 15/11/2018.

[3] Về xử lý vật chứng:

Tịch thu tiêu hủy 01 (một) phong bì đã niêm phong số 963/GĐKTHS mặt trước phong bì ghi Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam hoàn trả mẫu vật giám định ngày 15/11/2018 và một hộp giấy đã niêm phong số 963/GĐKTHS, QT03, Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý, tỉnh Hà Nam hoàn trả mẫu vật giám định ngày 15/11/2018 và một bật lửa ga màu tím.

Trả lại Nguyễn Quốc L: 01 đèn nháy laze F164 màu đen, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu ghi.

Trả lại Nguyễn Hoàng K: 01 thẻ căn cước công dân và số tiền 2.400.000đ. Trả lại Đỗ Phương T2: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đen.

 Trả lại Vũ Trọng Đ: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng, 01 thẻ căn cước công dân và số tiền 250.000đ.

Trả lại Hà Thu T3: Số tiền 570.000đ, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone.

Trả lại Nguyễn Ngọc T1: 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu vàng.

Tịch thu sung Ngân sách Nhà nước: 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Honda Airblade màu đen BKS 90B1-829.99, 01 đăng ký xe máy số 075254, 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu trắng thu giữ của Nguyễn Hoàng K; 01 loa hình tròn màu đen, 01 máy tính xách tay Laptop màu trắng bạc thu giữ của Vũ Trọng Đ; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Iphone màu xám thu giữ của Lữ Thị Hương Q.

(Tình trạng như biên bản giao nhận vật chứng giữa Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố Phủ Lý với Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Phủ Lý ngày 28/3/2019 và giấy ủy nhiệm chi số 17 ngày 05/4/2019).

[4] Án phí hình sự sơ thẩm: Buộc bị cáo Nguyễn Hoàng K phải nộp 200.000đ.

Án xử công khai sơ thẩm bị cáo, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án có mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt tại phiên tòa được quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, T4 nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

2601
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án về tội tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy số 61/2019/HS-ST

Số hiệu:61/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Phủ Lý - Hà Nam
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 04/06/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về