TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ T U, TỈNH BÌNH DƯƠNG
BẢN ÁN 61/2019/HNGĐ-ST NGÀY 25/11/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON
Ngày 25 tháng 11 năm 2019 tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã TU tiến hành phiên tòa sơ thẩm công khai xét xử vụ án Hôn nhân và gia đình thụ lý số 163/2019/TLST-HNGĐ ngày 18/9/2019 về việc: Ly hôn, tranh chấp về nuôi con, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 10 năm 2019, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Bà Lê Thị T, sinh năm 1978; địa chỉ: Số nhà 39/16, tổ 6, ấp H, xã V, thị xã TU, tỉnh Bình Dương; có mặt.
- Bị đơn: Ông Nguyễn Văn B, sinh năm 1979; địa chỉ: Số nhà 39/16, tổ 6, ấp H, xã V, thị xã TU, tỉnh Bình Dương; văng mặt.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Tại đơn khởi kiện ngày 05 tháng 9 năm 2019 và trong quá trình giải quyết vụ án nguyên đơn bà Lê Thị T trình bày:
+ Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị T và ông Nguyễn Văn B chung sống trên cơ sở tự nguyện, được hai bên gia đình tổ chức lễ cưới theo phong tục vào năm 2003, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã M, huyện C, tỉnh Nghệ An cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 02, Quyển số 01/2003, ngày 09/01/2003. Thời gian đầu, vợ chồng chung sống hạnh phúc nhưng đến nay vợ chồng thường xuyên phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn là do bất đồng về quan điểm sống, ai cũng cho là mình đúng người kia sai nên không có sự tôn trọng lẫn nhau. Ông Nguyễn Văn B đi làm nhưng không phụ bà T chăm lo cuộc sống gia đình và nuôi dạy con cái. Bà Lê Thị T đã khuyên can nhiều lần nhưng đều không mang lại kết quả. Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, mâu thuẫn ngày càng trầm trọng không thể hàn gắn được, mục đích hôn nhân không đạt được. Vì vậy, bà Lê Thị T yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Văn B.
+ Về con chung: ông B và bà T có 02 con chung tên Nguyễn Thị Thúy N, sinh ngày16/06/2006 và Nguyễn Văn S, sinh ngày 22/05/2012. Khi ly hôn bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng 02 con chung tên Nguyễn Thị Thúy N, sinh ngày 16/06/2006 và Nguyễn Văn S, sinh ngày 22/05/2012. bà T không yêu cầu ông Nguyễn Văn B phải cấp dưỡng nuôi 02 con chung.
+ Về Bsản chung và vay nợợ chung: bà T không yêu cầu Tòa án giải quyết. Tại phiên tòa bà Lê Thị T trình bày vẫn giữ nguyên yêu cầu khởi kiện như đã nêu và không B ổ sung gì thêm.
- Quá trình giải quyết vụ án Tòa án đã triệu tập hợp lệ nhiều lần nhưng bị đơn ông Nguyễn Văn B đều vắng mặt và không có văn bản trình bày ý kiến đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Đại diện Viện Kiểm sát nhân dân thị xã TU tham gia phiên toà phát biểu quan điểm như sau:
- Về thủ tục tố tụng: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa, những người tiến hành tố tụng và tham gia tố tụng đã chấp hành đúng quy định của pháp luật tố tụng dân sự.
- Về nội dung vụ án: xét thấy mâu thuẫn vợ chồng đã trầm trọng, mục đích hôn nhân không đạt được. Đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị T, cụ thể như sau:
Về quan hệ hôn nhân: Chấp nhận cho bà Lê Thị T được ly hôn với ông Nguyễn Văn B.
Về con chung: Giao 02 con chung tên Nguyễn Thị Thúy N, sinh ngày16/06/2006 và Nguyễn Văn S, sinh ngày 22/05/2012 cho bà Lê Thị T được nuôi dưỡng.
Vấn đề cấp dưỡng nuôi con chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
+ Vấn đề tài sản chung và vay nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên không đề nghị Hội đồng xét xử xem xét.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa và căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định:
[1] Về quan hệ pháp luật và thẩm quyền giải quyết: Đây là vụ án hôn nhân và gia đình mà bị đơn cư trú tại thị xã TU và nguyên đơn đề nghị Toà án nhân dân thị xã TU giải quyết. Căn cứ vào Điều 28, 35 và 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Hội đồng xét xử xác định vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thị xã TU, tỉnh Bình Dương.
[2] Về sự vắng mặt của các đương sự: Bị đơn ông Nguyễn Văn B đã được Tòa án triệu tập hợp lệ hai lần tham gia phiên tòa, nhưng ông B vắng mặt không có lý do nên Hội đồng xét xử căn cứ Điều 227 và Điều 228 Bộ luật Tố tụng dân sự, xét xử vắng mặt ông B .
[3] Đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, Hội đồng xét xử xxét thấy như sau:
[3.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Lê Thị T và ông Nguyễn Văn B là những người đủ điều kiện kết hôn, chung sống với nhau trên cơ sở tìm hiểu tự nguyện, có đăng ký kết hôn và được Ủy ban nhân dân xã M, huyện C, tỉnh Nghệ An cấp Giấy chứng nhận đăng ký kết hôn số 02, Quyển số 01/2003, ngày 09/01/2003 nên đây là hôn nhân h p pháp. Quá trình chung sống thì vợ chồng phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân mâu thuẫn theo nguyên đơn trình bày là do vợ chồng bất đồng về quan điểm sống và không có sự tôn trọng lẫn nhau. Ngoài ra, ông B không cùng với bà T để chăm sóc các con. ông B được Tòa án triệu tập hợp lệ nhiều lần để hoà giải, tham gia phiên toà nhưng ông B không đến và không có ý kiến, điều này cho thấy ông B không quan tâm và cũng không có thiện chí để Tòa án hòa giải, vợ chồng đoàn tụ cùng nhau nuôi dạy con cái. Như vậy, có cơ sở xác định mâu thuẫn vợ chồng bà T và ông B là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên bà T yêu cầu được ly hôn với ông B là có cơ sở theo quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên Hội đồng xét xử chấp nhận.
[3.2] Về con chung: vợ chồng có 02 con chung tên Nguyễn Thị Thúy N, sinh ngày 16/06/2006 và Nguyễn Văn S, sinh ngày 22/05/2012. Khi ly hôn bà T yêu cầu được trực tiếp nuôi dưỡng hai con chung. Con chung hiện đang sống cùng với bà T và có nguyện vọng được ở với mẹ. xét thấy, yêu cầu của nguyên đơn phù hợp với nguyện vọng của con chung đủ 07 tuổi trở lên, phù hợp với các Điều 81, 82, 83, 84 và 85 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 nên nên Hội đồng xét xử chấp nhận giao con chung tên Nguyễn Thị Thúy N, sinh ngày16/06/2006 và Nguyễn Văn S, sinh ngày 22/05/2012 cho bà T trực tiếp nuôi dưỡng.
[3.3] Về việc cấp dưỡng nuôi con chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[3.4] Về Bsản chung và vay nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
[4] Ý kiến phát biểu của Đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa là có căn cứ nên được Hội đồng xét xử chấp nhận.
[5] Về án phí sơ thẩm: Căn cứ vào Khoản 8 Điều 27 Pháp lệnh số 10/2009/UBTVQH12 ngày 27/02/2009 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá II về án phí, lệ phí Toà án thì nguyên đơn bà Lê Thị T phải nộp án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
- Căn cứ vào Điều 28, 35, 39, 92, 266, 273 và 280 của Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015;
- Căn cứ vào Điều 17, 19, 56, 81, 82, 83, 84 và 85 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;
- Căn cứ vào điểm a, khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội Khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Toà án;
Tuyên xử:
1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị T về việc: Ly hôn và tranh chấp về nuôi con với bị đơn ông Nguyễn Văn B.
2. Bà Lê Thị T được ly hôn với ông Nguyễn Văn B.
3. Về con chung: Giao 02 con chung tên Nguyễn Thị Thúy N, sinh ngày16/06/2006 và Nguyễn Văn S, sinh ngày 22/05/2012 cho bà Lê Thị T trực tiếp nuôi dưỡng.
4. Về việc cấp dưỡng nuôi con chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
Bà Lê Thị T và ông Nguyễn Văn B đều có quyền và nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con theo quy định của pháp luật. Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người đang trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì l i ích của con chưa thành niên, Tòa án có thể quyết định thay đổi người trực tiếp nuôi con và mức cấp dưỡng nuôi con khi có đơn yêu cầu.
5. Về Bsản chung và vay nợ chung: Các đương sự không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không đề cập giải quyết.
6. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Bà Lê Thị T phải nộp số tiền 300.000 đồng, khấu trừ vào số tiền 300.000 đồng đã nộp tại Biên lai thu tạm ứng án phí, lệ phí Tòa án số AA/2016/0037257 ngày 18/9/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã TU, tỉnh Bình Dương. Bà Lê Thị T không phải nộp thêm.
7. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có mặt được kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Bị đơn vắng mặt được quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự./
Bản án 61/2019/HNGĐ-ST ngày 25/11/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con
Số hiệu: | 61/2019/HNGĐ-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân - Bình Dương |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 25/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về