Bản án 61/2019/HNGĐ-ST ngày 11/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ P, TỈNH GIA LAI

BẢN ÁN 61/2019/HNGĐ-ST NGÀY 11/10/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 11 tháng 10 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 303/2019/TLST-HNGĐ ngày 03 tháng 5 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 76/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 30 tháng 8 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Anh Hồ Xuân K, sinh năm 1976.

Đa chỉ: Thôn C, thị trấn T, huyện T, tỉnh Bình Định. Có mặt.

2. Bị đơn: Chị Phạm Thị Như H, sinh năm: 1980

Địa chỉ: 05 Nguyễn T, tổ 1, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo đơn khởi kiện ngày 26 tháng 4 năm 2019, bản tự khai và trong quá trình giải quyết vụ án, cũng như tại phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn là anh Hồ Xuân K trình bày:

Anh và chị Phạm Thị Như H tự nguyện đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã C, thành phố P, tỉnh Gia Lai vào ngày 22/03/2001. Thời gian đầu vợ chồng sống hạnh phúc, sau đó thì phát sinh mâu thuẫn do bất đồng quan điểm, vợ chồng thường xuyên cãi nhau, đời sống hôn nhân không hạnh phúc anh và chị H đã sống ly thân từ năm 2016. Hiện nay không ai còn quan tâm gì đến cuộc sống của nhau, vợ chồng không còn yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau để cùng xây dựng gia đình hạnh phúc nên không thể kéo dài cuộc sống chung với nhau được, do vậy anh yêu cầu Tòa án giải quyết:

Về quan hệ hôn nhân: Yêu cầu giải quyết cho anh được ly hôn với chị Phạm Thị Như H.

Về con chung: Anh và chị H có 03 con chung là cháu Hồ Bảo Tr1, sinh ngày 16/10/2001, cháu Hồ Bảo T, sinh ngày 14/10/2003, cháu Hồ Bảo Tr2, sinh ngày 17/11/2008. Ly hôn anh yêu cầu Tòa án các con có nguyện vọng ở với ai thì giao cho người đó nuôi; về cấp dưỡng nuôi con: anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Về tài sản chung và nghĩa vụ chung: Anh không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Bị đơn chị Phạm Thị Như H mặc dù đã được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án, nhiều lần Tòa án thông báo đến hòa giải, triệu tập tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không có lý do, nên đã không trình bày được quan điểm của chị đối với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa, Kiểm sát viên phát biểu ý kiến về việc tuân theo pháp luật tố tụng của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa và của người tham gia tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án kể từ khi thụ lý cho đến trước thời điểm Hội đồng xét xử nghị án và đề nghị Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Hồ Xuân K về yêu cầu ly hôn với chị Phạm Thị Như H và giao cháu Hồ Bảo Tr1, Hồ Bảo T, Hồ Bảo Tr2 cho anh K trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng. Anh K phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại phiên tòa, nghe lời trình bày của nguyên đơn tại phiên tòa, ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên, Hội đồng xét xử nhận định:

[1] Nguyên đơn anh Hồ Xuân K yêu cầu ly hôn và tranh chấp về nuôi con với chị Phạm Thị Như H, sinh năm: 1980. Địa chỉ: 05 Nguyễn T, tổ 1, phường T, thành phố P, tỉnh Gia Lai. Theo quy định tại khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự, thì đây là vụ án về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân thành phố P, tỉnh Gia Lai.

[2] Bị đơn chị Phạm Thị Như H đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt. Căn cứ vào quy định tại khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự, Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án vắng mặt bị đơn.

[3] Về quan hệ hôn nhân: Anh Hồ Xuân K và chị Phạm Thị Như H tự nguyện kết hôn và có đăng ký kết hôn theo đúng quy định của pháp luật nên đây là hôn nhân hợp pháp. Mâu thuẫn hôn nhân theo anh K trình bày sau khi kết hôn anh và chị H đã bất đồng quan điểm, không tin tưởng nhau, thường xuyên cải vã, đời sống hôn nhân không hạnh phúc, đã được gia đình hai bên hòa giải nhưng vợ chồng vẫn mâu thuẫn gay gắt, đã sống ly thân hơn ba năm. Quá trình giải quyết vụ án, Tòa án xác minh tại nơi cư trú của chị H thì thấy chị và anh K có mâu thuẫn trầm trọng 4-5 năm và đã sống ly thân từ đó cho đến nay. Bị đơn chị H mặc dù đã được Tòa án thông báo về việc thụ lý vụ án, triệu tập nhiều lần đến để tham gia hòa giải, xét xử nhưng chị H không đến, thể hiện thái độ bỏ mặc, không quan tâm đến việc tiếp tục duy trì cuộc sống vợ chồng với anh K. Hội đồng xét xử xét thấy: anh K và chị H đã không còn chung sống với nhau, không ai quan tâm lo lắng, chăm sóc cho nhau, tình trạng hôn nhân giữa anh K và chị H như vậy là trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được, nên Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu ly hôn của anh K theo quy định tại Điều 56 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về việc nuôi con: Anh K và chị H có 03 con chung là cháu Hồ Bảo Tr1, sinh ngày 16/10/2001, cháu Hồ Bảo T, sinh ngày 14/10/2003, cháu Hồ Bảo Tr2, sinh ngày 17/11/2008, hiện nay cháu Tr1 đang học đại học, cháu T, cháu Tr2 đang ở với anh K, nguyện vọng của các cháu là ở với anh K, xét thấy anh K đang trong độ tuổi lao động, có công việc ổn định, đảm bảo đủ điều kiện để trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các cháu Tr1, T, Tr2; chị H đã được Tòa án niêm yết các văn bản tố tụng để chị biết nhưng chị H không đưa ra ý kiến phản đối. Do đó, Hội đồng xét xử chấp nhận yêu cầu của anh K, giao con chung là các cháu Tr1, T, Tr2 cho anh K trực tiếp nuôi dưỡng là phù hợp quy định tại khoản 3 Điều 81 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[5] Về cấp dưỡng nuôi con: Anh K không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[6] Về tài sản chung và nghĩa vụ chung về tài sản: Anh K không yêu cầu Tòa án giải quyết nên Hội đồng xét xử không xem xét.

[7] Về án phí: Anh K phải chịu 300.000 đồng án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 Điều 39, Điều 147, khoản 3 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng dân sự; điểm a khoản 5 Điều 27 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án;

Áp dụng khoản 1 Điều 56, Điều 57, 81, 82, 83, 84 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014;

Xử: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của anh Hồ Xuân K, cụ thể như sau:

1. Về hôn nhân: Anh Hồ Xuân K ly hôn với chị Phạm Thị Như H.

2. Về việc nuôi con: Thuận theo nguyện vọng của các cháu Hồ Bảo Tr1, Hồ Bảo T, Hồ Bảo Tr2 giao cho anh Hồ Xuân K trực tiếp trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cháu Hồ Bảo Tr1, sinh ngày 16/10/2001, cháu Hồ Bảo T, sinh ngày 14/10/2003, cháu Hồ Bảo Tr2, sinh ngày 17/11/2008 cho đến khi các cháu Tr1, T, Tr2 thành niên hoặc đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự hoặc không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.

Người không trực tiếp nuôi con có quyền, nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Nếu người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó.

Trên cơ sở lợi ích của con, các đương sự có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc thay đổi mức cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Anh Hồ Xuân K phải chịu án phí dân sự sơ thẩm về ly hôn là 300.000đ (ba trăm nghìn đồng), được trừ vào tiền tạm ứng án phí đã nộp là 300.000 đồng, theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0001392 ngày 03 tháng 5 năm 2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thành phố P. Anh K đã nộp đủ án phí dân sự sơ thẩm.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6,7 và 9 Luật thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án, nguyên đơn có quyền làm đơn kháng cáo bản án để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Gia Lai giải quyết lại theo thủ tục phúc thẩm. Bị đơn vắng mặt tại phiên tòa có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ hoặc được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

152
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2019/HNGĐ-ST ngày 11/10/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:61/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Pleiku - Gia Lai
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 11/10/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về