TOÀ ÁN NHÂN DÂN TỈNH THANH HOÁ
BẢN ÁN 61/2019/HNGĐ-PT NGÀY 12/11/2019 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN VÀ NUÔI CON KHI LY HÔN
Ngày 12 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Toà án nhân dân tỉnh Thanh Hoá xét xử phúc thẩm công khai vụ án dân sự thụ lý số 46/2019/TLPT-HNGĐ ngày 19/9/2019 về việc “Tranh chấp ly hôn, nuôi con khi ly hôn”.
Do bản án dân sự sơ thẩm số 47/2019/HNGĐ-ST ngày 15/08/2019 của Toà án nhân dân huyện Thạch Thành bị kháng cáo. Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số 54/2019/QĐ-PT ngày 17/10/2019, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn: Chị Bùi Thị H1; Sinh năm: 1993
Địa chỉ: Thôn B.B, xã Th.C, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa.
- Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho chị H1:
Ông Đường Xuân A. – Trợ giúp viên pháp lý.
Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước tỉnh Thanh Hóa – Chi nhánh số 08.
- Bị đơn: Anh Bùi Văn H2; Sinh năm: 1988
Địa chỉ: Thôn N.L, xã Th.T, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa.
Người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho bị đơn: Ông Chu Văn T.
Công ty Luật TNHH 88 – Đoàn Luật sư Thành phố Hà Nội.
- Người kháng cáo: Bị đơn anh Bùi Văn H2.
Tại phiên tòa: Có mặt anh H2, chị H1 và những người bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho các đương sự.
NỘI DUNG VỤ ÁN
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa sơ thẩm, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
1. Theo nguyên đơn trình bày: Chị và anh Bùi Văn H2 kết hôn tự nguyện, đăng ký kết hôn ngày 04/02/2013 tại UBND xã Th.C, huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa. Sau ngày cưới, vợ chồng hòa thuận đến đầu năm 2017 thì phát sinh mâu thuẫn. NgU. nhân là do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng quan điểm sống nên thường xU. xảy ra mâu thuẫn cãi cọ. Thời gian kéo dài khiến cho vợ chồng càng thêm mệt mỏi và chán nản. Chị và anh H2 đã sống ly thân từ tháng 7 năm 2017 cho đến nay, không còn qua lại quan tâm gì đến nhau nữa. Nay chị xác định tình cảm vợ chồng không còn nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho chị được ly hôn anh H2.
Về con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Bùi Thị P.U, sinh ngày 15/6/2014. Ly hôn, chị yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh H2 cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị. Hiện chị đang làm công nhân của công ty điện tử Sam Sung với mức lương trung bình là 8.000.000đ/1 tháng nên chị có đủ điều kiện để trực tiếp nuôi con và không yêu cầu anh H2 phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Về tài sản: Chị H1 không yêu cầu Tòa án giải quyết.
2. Theo bị đơn trình bày: Anh và chị Bùi Thị H1 kết hôn tự nguyện, có đăng ký kết hôn ngày 04/02/2013 tại UBND xã Th.C, huyện Thạch Thành. Sau ngày cưới, vợ chồng hòa thuận đến năm 2018 thì bắt đầu phát sinh mâu thuẫn. NgU. nhân là anh bảo vợ anh về công ty gần nhà làm mà vợ anh không chịu. Thời gian quá dài khiến anh vô cùng chán nản. Vợ chồng anh đã ly thân được 02 năm. Anh có níu kéo chị H1 về nhưng chị H1 không chịu về. Ngoài ra do vợ chồng tính tình không hòa hợp, không cùng chung quan điểm sống nên thường xU. sảy ra cãi cọ. Nay anh xác định tình cảm vợ chồng không còn nên anh đề nghị Tòa án giải quyết cho anh được ly hôn chị H1.
Về con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Bùi Thị P.U, sinh ngày 15/6/2014. Ly hôn, anh yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu chị H1 cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh. Hiện tại anh đang đi làm theo công trình xây dựng trong Long An và thường xU. thay đổi chỗ làm nên con anh đang gửi ở nhà cho bố mẹ anh nuôi dưỡng nhưng anh vẫn gửi tiền về cho bố mẹ để nuôi con. Về tài sản: Anh H2 không yêu cầu giải quyết.
* Tại Bản án Dân sự sơ thẩm số 47/2019/HNGĐ-ST ngày 15/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thạch Thành đã quyết định: Căn cứ vào Khoản 1 điều 56, 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 1 điều 28 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm đ khoản 1 điều 12, khoản 6 điều 15 Nghị quyết số 326 /2016/ UBTVQH14 quy định về mức thu án phí và lệ phí Toà án.
Về hôn nhân: Xử cho chị Bùi Thị H1 được ly hôn anh Bùi Văn H2;
Về con cái: Giao cháu Bùi Thị P.U, sinh ngày 15/6/2014 cho chị H1 trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi thành niên. Anh H2 không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng chị H1; Anh H2 có quyền đi lại trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.
- Án sơ thẩm còn quyết định về phần án phí và quyền kháng cáo.
* Ngày 28/8/2019, anh Bùi Văn H2 kháng cáo, với nội dung: Nguyện vọng được nuôi cháu Bùi Thị P.U và không yêu cầu chị H1 phải cấp dưỡng nuôi con chung.
* Tại phiên toà phúc thẩm:
- Nguyên đơn vẫn giữ nguyên đơn khởi kiện, người kháng cáo không rút đơn kháng cáo và đề nghị xét xử theo quy định của pháp luật.
- Phía anh H2 có quan điểm: Cháu Bùi Thị P.U sau khi sinh ra được 06 tháng tuổi thì chị H1 mẹ cháu đã bỏ đi làm ăn xa tại Bắc Ninh, một năm chỉ về thăm cháu 1 đến 2 lần. Cháu P.U ở nhà do bố và ông bà nội chăm sóc. Đến nay cháu đã được hơn 5 tuổi, cháu phát triển bình thường, đang được đi học gần nhà. Đề nghị được tiếp tục nuôi cháu, không giao cháu cho mẹ vì từ nhỏ cháu không ở với mẹ, mẹ cháu đi làm ăn xa, ít tiếp xúc, không có nơi ở ổn định nên sẽ ảnh hưởng đến phát triển của cháu bé.
- Phía chị H1 có quan điểm: Hiện nay chị đi làm công nhân ở Bắc Ninh có thu nhập ổn định, nếu được nuôi cháu chị sẽ chuyển về làm ở gần nhà để có điều kiện chăm sóc. Để đảm bảo quyền của người mẹ chị đề nghị được nuôi cháu P.U.
- Ý kiến của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Thanh Hoá:
Quá trình giải quyết vụ án tại cấp sơ thẩm và phúc thẩm tuân theo các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
Xét kháng cáo của anh Bùi Văn H2: Mặc dù chị Bùi Thị H1 là mẹ đẻ cháu Bùi P.U, nhưng chị H1 đã đi làm ăn xa tại tỉnh Bắc Ninh từ khi cháu mới hơn 6 tháng tuổi, khi cháu đang cần sự chăm sóc đặc biệt của người mẹ. Nhưng cháu U. đã phải xa mẹ và được bố và ông bà nội chăm sóc, nuôi dưỡng cháu đã được hơn 5 tuổi, phát triển bình thường và đang được đi học ổn định. Hiện nay chị H1 vẫn đang đi làm ăn xa, điều kiện về nơi ở chưa ổn định nếu giao cháu U. cho chị H1 nuôi dưỡng thì sẽ ảnh hưởng đến tâm, sinh lý và phát triển bình thường của cháu bé khi thay đổi môi trường sống. Vì vậy đề nghị Hội đồng xét xử căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự, chấp nhận kháng cáo của anh H2, sửa quyết định của bản án sơ thẩm, giao cháu U. cho bố cháu nuôi là phù hợp với hoàn cảnh thực tế và đảm bảo được các quyền lợi của cháu.
Sau khi nghiên cứu các tài liệu có trong hồ sơ vụ án, được thẩm tra tại phiên toà, ý kiến, tranh luận của các đương sự và quan điểm của Đại diện Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ án.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Tại phiên toà phúc thẩm chị Bùi Thị H1 vẫn giữ ngU. yêu cầu khởi kiện, anh Bùi Văn H2 giữ nguyên đơn kháng cáo, các bên không thỏa thuận được với nhau về việc nuôi con chung nên được xem xét theo trình tự phúc thẩm.
[2] Xét nội dung kháng cáo: Chị Bùi Thị H1 và anh Bùi Văn H2 kết hôn trên cơ sở tự nguyện, đăng ký kết hôn được Uỷ ban nhân dân xã Th.C, huyện Thạch Thành cấp giấy chứng nhận kết hôn ngày 04/02/2013 là hôn nhân hợp pháp. Do các bên không kháng cáo và cũng không hòa giải đoàn tụ được tại phiên tòa nên phần hôn nhân (ly hôn) đã có hiệu lực pháp luật.
Về con chung: Vợ chồng có một con chung là cháu Bùi Thị P.U, sinh ngày 15/6/2014. Chị H1 và anh H2 đều yêu cầu được trực tiếp nuôi con và không yêu cầu bên kia phải cấp dưỡng nuôi con chung.
Xét thấy, tại phiên tòa chị H1, anh H2 đều thừa nhận cháu U. sinh ra từ khi 6 tháng tuổi mẹ cháu là chị H1 đi làm ăn xa tại tỉnh Bắc Ninh, hàng năm có về thăm cháu 1 đến 2 lần. Kể từ khi mẹ cháu đi làm ăn xa, cháu ở với bố và ông bà nội tại quê, đến nay cháu đã được hơn 5 tuổi, phát triển bình thường và và đang được đi học mẫu giáo. Chị H1 mẹ cháu hiện nay vẫn đi làm ăn xa nhà, không có nơi ở ổn định, từ nhỏ đã ít gần gũi, chăm sóc cháu nên nếu giao cháu U. cho chị H1 trực tiếp nuôi dưỡng sẽ ảnh hưởng đến tâm lý, thể chất và điều kiện học tập của cháu.
Do cháu U. hiện nay vẫn đang được bố và gia đình chăm sóc, phát triển bình thường nên cần thiết để ổn định tâm lý, sinh hoạt cho cháu bé mới hơn 5 tuổi. Vì vậy cần giao cháu U. cho bố cháu tiếp tục nuôi dưỡng và chăm sóc là phù hợp với thực tế và vì quyền lợi của cháu.
Về cấp dưỡng nuôi con chung, anh H2 không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.
Từ những lý do trên, chấp nhận kháng cáo của anh Bùi Văn H2, sửa quyết về phần nuôi con chung của Bản án sơ thẩm số 47/2019/HNGĐ-ST ngày 15/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hóa.
[3] Về án phí phúc thẩm: Kháng cáo của anh H2 được chấp nhận nên không phải chịu án phí phúc theo quy định của pháp luật.
Vì các lẽ trên;
QUYẾT ĐỊNH
* Căn cứ: Khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng Dân sự:
- Chấp nhận kháng cáo của anh Bùi Văn H2, sửa quyết định về phần nuôi con chung của Bản án dân sự sơ thẩm số 47/2019/HNGĐ-ST ngày 15/8/2019 của Tòa án nhân dân huyện Thạch Thành.
* Căn cứ vào Điều 58, 81, 82, 83 Luật hôn nhân và gia đình; Khoản 2 Điều 29 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 31/12/2016 của Quốc Hội quy định về án phí lệ phí Tòa án.
Xử:
- Về con chung: Giao cháu Bùi Thị P.U, sinh ngày 15/6/2014 cho anh Bùi Văn H2 trực tiếp nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục đến tuổi thành niên. Chị Bùi Thị H1 không phải cấp dưỡng nuôi con chung cùng anh H2.
Chị H1 có quyền đi lại trông nom, chăm sóc, giáo dục con chung không ai được cản trở.
- Án phí phúc thẩm: Anh Bùi Văn H2 không phải chịu án phí phúc thẩm, được trả lại số tiền tạm ứng án phí 300.000đ đã nộp theo biên lai thu tiền tạm ứng án phí số 0003760 ngày 29/8/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Thạch Thành.
* Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị.
Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./
Bản án 61/2019/HNGĐ-PT ngày 12/11/2019 về tranh chấp ly hôn và nuôi con khi ly hôn
Số hiệu: | 61/2019/HNGĐ-PT |
Cấp xét xử: | Phúc thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Thanh Hoá |
Lĩnh vực: | Hôn Nhân Gia Đình |
Ngày ban hành: | 12/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về