TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN NGỌC HIỂN, TỈNH CÀ MAU
BẢN ÁN 61/2019/DS-ST NGÀY 28/11/2019 VỀ TRANH CHẤP TIỀN HỤI
Ngày 28 tháng 11 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Ngọc Hiển, tỉnh Cà Mau xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số: 146/2019/TLST-DS ngày 01 tháng 8 năm 2019 về việc: “Tranh chấp tiền hụi” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 85/2019/QĐXXST-DS ngày 15 tháng 11 năm 2019, giữa các đương sự:
1. Nguyên đơn: Bà Huỳnh Thúy H, sinh năm 1969. (có mặt)
Cư trú tại: Khóm 1, thị t, huyện N, tỉnh C ..
2. Bị đơn: Vợ chồng ông Nguyễn Thanh C, sinh năm 1976 và bà Trần Kim N, sinh năm 1980 (xin vắng mặt).
Cùng cư trú tại: Khóm 3, thị t, huyện N, tỉnh C ..
NỘI DUNG VỤ ÁN
* Nguyên đơn bà Huỳnh Thúy H trình bày:
Vào năm 2018 bà H bắt đầu làm chủ hụi, có mở 02 dây hụi, thì vợ chồng chị N và anh C vô hụi cụ thể N sau:
- Dây hụi thứ nhất: Mở hụi ngày 10/01/2018 âm lịch, hụi 3.000.000 đồng, mỗi tháng khui 03 lần (vào ngày 10, 20, 30 âm lịch hàng tháng), hụi gồm 30 chân, vợ chồng N và C vô 02 chưng; bỏ hụi hốt chưng thứ nhất vào kỳ thứ 3 vào ngày 29/01/2018 âm lịch, bỏ hụi với số tiền 550.000 đồng, bà H đã giao số tiền hốt hụi được cho vợ chồng N và C là 69.150.000 đồng; chưng thứ 02 bỏ hụi hốt tại kỳ thứ 8 vào ngày 30/02/2018 âm lịch, bỏ hụi với số tiền là 600.000 đồng, bà H đã giao số tiền hốt hụi được cho vợ chồng N và C là 72.300.000 đồng. Dây hụi này mãn vào ngày 10/11/2018 âm lịch. Sau khi hốt thì vợ chồng N và C đóng hụi chết lại đến kỳ thứ 17 vào ngày 30/6/2018 âm lịch thì ngưng không đóng, vợ chồng N và C đã bỏ địa phương đi vào tháng 07/2018 âm lịch nên không đóng tiếp hụi chết từ kỳ thứ 18 vào ngày 10/7/2018 âm lịch. Vậy đối với dây hụi này thì vợ chồng N và C còn nợ lại 13 kỳ hụi chết x 3.000.000 đồng x 02 chưng = 78.000.000 đồng.
- Dây hụi thứ hai: Mở hụi ngày 15/5/2018 âm lịch, hụi 2.000.000 đồng, mỗi tháng khui 03 lần (vào ngày 05, 15, 25 âm lịch hàng tháng), hụi gồm 30 chân, vợ chồng N và C vô 02 chưng; bỏ hụi hốt chưng thứ nhất vào kỳ thứ 3 ngày 05/6/2018 âm lịch, bỏ hụi với số tiền 410.000 đồng, bà H đã giao số tiền hốt hụi được cho vợ chồng bà N là 45.930.000 đồng; chưng hụi thứ 2 hốt vào kỳ thứ 4 ngày 15/6/2018 âm lịch, đến ngày 20/6/2018 âm lịch bà H đã giao số tiền vợ chồng bà N hốt hụi được là 46.340.000 đồng. Dây hụi này mãn vào ngày 15/03/2019 âm lịch. Sau khi hốt hụi và nhận tiền hụi ở chưng thứ 2 thì vợ chồng N bỏ địa phương đi nên không đóng hụi chết lại cho bà H, do đó số tiền hụi chết mà vợ chồng N và C còn nợ lại đến mãn hụi = 26 kỳ x 2.000.000 đồng x 2 chưng = 104.000.000 đồng.
Tổng số tiền hụi chết mà vợ chồng N và C còn nợ của 02 dây hụi là 182.000.000 đồng.
Vợ chồng N và C bỏ địa phương đi vào tháng 07/2018 âm lịch, nên không đóng hụi lại cho bà H.
Sau khi bỏ địa phương đi thì vợ chồng bà N có gửi về đóng hụi chết với số tiền là 8.000.000 đồng, nên số tiền hụi chết còn nợ là 174.000.000 đồng.
Nay bà H yêu cầu vợ chồng bà N và ông C trả tổng số tiền hụi chết còn nợ nêu trên, ngoài ra bà H không có yêu cầu khác.
* Tại đơn đề nghị vắng mặt ngày 17/10/2019, bị đơn bà Trần Kim N trình bày: Đối với yêu cầu thanh toán nợ của bà Huỳnh Thúy H thì bà N xác định hiện nay không còn nợ bà H, bà N đề nghị giải quyết vắng mặt.
* Tại đơn đề nghị vắng mặt ngày 17/10/2019, bị đơn ông Nguyễn Thanh C trình bày: Ông C không nợ ai, không có trách nhiệm với nợ của ai.
* Tại phiên tòa:
- Bà Huỳnh Thúy H trình bày: Do vợ chồng bà N mới gửi trả thêm 3.000.000 đồng, nên bà H yêu cầu Tòa án giải quyết buộc vợ chồng ông Nguyễn Thanh C và bà Trần Kim N thanh toán tổng số tiền hụi chết còn nợ là 171.000.000 đồng.
- Vợ chồng ông Nguyễn Thanh C và bà Trần Kim N đề nghị vắng mặt.
- Đại diện Viện kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến: Về thủ tục tố tụng trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và tại phiên tòa thì Thẩm phán, Hội đồng xét xử và đương sự đã chấp hành đúng quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Về nội dung giải quyết vụ án: Đề nghị chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thúy H, buộc vợ chồng ông Nguyễn Thanh C và bà Trần Kim N thanh toán tổng số tiền hụi chết còn nợ là 171.000.000 đồng.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
[1] Về thủ tục tố tụng: Vợ chồng ông Nguyễn Thanh C và bà Trần Kim N có đơn đề nghị giải quyết vắng mặt; Do đó, Hội đồng xét xử căn cứ vào khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự xét xử vắng mặt đối với vợ chồng ông Nguyễn Thanh C và bà Trần Kim N.
[2] Về nội dung vụ án:
* Xét yêu cầu của bà Huỳnh Thúy H: Vào năm 2018 bà H làm chủ hụi, vợ chồng ông C và bà N có vô 02 dây hụi gồm: 02 chưng dây hụi 3.000.000 đồng đã hốt hụi và còn nợ lại hụi chết là 78.000.000 đồng, 02 chưng dây hụi 2.000.000 đồng đã hốt hụi và còn nợ lại hụi chết là 104.000.000 đồng, tổng số tiền hụi chết còn nợ là 182.000.000 đồng; đến khoảng tháng 07/2018 âm lịch thì vợ chồng bà N bỏ đi khỏi địa phương, Nng có gửi tiền về đóng hụi được 11.000.000 đồng. Nay bà Hạn yêu cầu vợ chồng bà N và ông C thanh toán tiền hụi chết còn nợ là 171.000.000 đồng.
Vợ chồng ông Nguyễn Thanh C và bà Trần Kim N không thừa nhận còn nợ theo yêu cầu khởi kiện của bà H.
Hội đồng xét xử nhận định: Đối với việc tham gia vô hụi, hốt hụi của vợ chồng bà Trần Kim N do bà Huỳnh Thúy H làm chủ hụi là thực tế xảy ra, do các hụi viên cùng tham gia vô chung với các dây hụi đều xác nhận là bà N có vô và đã hốt hụi (thể hiện tại các bút lục số 37, 38, 39, 40, 41); sau khi hốt hụi thì vợ chồng bà N không thực hiện việc đóng hụi lại, cụ thể là vợ chồng ông C và bà N đã bỏ địa phương đi vào khoảng tháng 07/2018 âm lịch, thể hiện tại biên bản xác minh đối với Ban nhân dân khóm 3 và Công an phụ trách khóm 3 (thể hiện tại bút lục số 42, 43), nên vợ chồng ông C và bà N không đóng hụi chết lại là có thực.
Đối với yêu cầu ông Nguyễn Thanh C là chồng của bà Trần Kim N cùng có trách nhiệm thanh toán số nợ nêu trên cho bà H, yêu cầu này của bà H là phù hợp nên được chấp nhận, bởi lẽ: Tại thời điểm vô hụi thì quan hệ hôn nhân giữa ông C và bà N vẫn tồn tại, bà N và ông C không có làm ăn riêng, tất cả chỉ vì mục đích phục vụ sinh hoạt chung trong gia đình, nên ông C phải có nghĩa vụ cùng với bà N thanh toán nợ nêu trên.
Từ những nhận định nêu trên, Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thúy H, buộc vợ chồng ông Nguyễn Thanh C và bà Trần Kim N phải có trách nhiệm thanh toán cho bà H tổng số tiền hụi chết còn nợ là 171.000.000 đồng.
Trường hợp vợ chồng ông C và bà N chậm thanh toán tiền hụi, thì còn phải chịu tiền lãi theo quy định của pháp luật.
[2.4] Về án phí dân sự sơ thẩm: Căn cứ khoản 2 Điều 26 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. - Buộc vợ chồng ông Nguyễn Thanh C và bà Trần Kim N phải chịu án phí với số tiền = 171.000.000 đồng x 5% = 8.550.000 đồng, nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Ngọc Hiển.
- Phần bà H nộp tạm ứng án phí với số tiền là 4.550.000 đồng tại biên lai thu tiền số 0005854 ngày 01 tháng 8 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Ngọc Hiển, nay bà H được nhận lại toàn bộ.
Các đương sự có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.
Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ vào:
- Khoản 1 Điều 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.
- Điều 471 của Bộ luật Dân sự.
- Khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Huỳnh Thúy H đối với vợ chồng ông Nguyễn Thanh C và bà Trần Kim N về việc thanh toán tiền hụi còn nợ.
Buộc vợ chồng ông Nguyễn Thanh C và bà Trần Kim N phải có trách nhiệm thanh toán cho bà Huỳnh Thúy H tổng số tiền hụi chết còn nợ là 171.000.000 đồng.
Ngoài ra, kể từ ngày bà H có đơn yêu cầu thi hành án, trường hợp vợ chồng ông C và bà N chậm thanh toán số tiền nêu trên, thì hàng tháng vợ chồng ông C và bà N còn phải chịu thêm khoản tiền lãi với mức lãi suất được quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật Tố tụng Dân sự tương ứng với thời gian thanh toán tại thời điểm thi hành án.
2. Về án phí dân sự sơ thẩm:
- Buộc vợ chồng ông C và bà N phải chịu án phí với số tiền là 8.550.000 đồng, nộp tại Chi cục thi hành án dân sự huyện Ngọc Hiển.
- Phần bà H nộp tạm ứng án phí với số tiền là 4.550.000 đồng tại biên lai thu tiền số 0005854 ngày 01 tháng 8 năm 2019 của Chi cục thi hành án dân sự huyện Ngọc Hiển, nay bà H được nhận lại toàn bộ.
“Trường hợp, Bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 của Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a, 7b và 9 của Luật thi hành án dân sự; thời hiệu yêu cầu thi hành án được quy định tại Điều 30 của Luật thi hành án dân sự”.
3. Quyền kháng cáo: Các đương sự có quyền kháng cáo bản án trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án, đương sự vắng mặt thì thời hạn kháng cáo kể từ ngày bản án được tống đạt hợp lệ.
Bản án 61/2019/DS-ST ngày 28/11/2019 về tranh chấp tiền hụi
Số hiệu: | 61/2019/DS-ST |
Cấp xét xử: | Sơ thẩm |
Cơ quan ban hành: | Tòa án nhân dân Huyện Ngọc Hiển - Cà Mau |
Lĩnh vực: | Dân sự |
Ngày ban hành: | 28/11/2019 |
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về