Bản án 61/2018/HSST ngày 30/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ VĨNH YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC

BẢN ÁN 61/2018/HSST NGÀY 30/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 30 tháng 5 năm 2018, tại Tòa án nhân dân thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số: 51/2018/HSST ngày 04 tháng 5 năm 2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 58/QĐXXST-HS ngày 18/5/2018 đối với bị cáo:

Nguyễn Đăng L, sinh ngày 02/5/1993, tại Vĩnh Phúc; nơi cư trú: Thôn ĐK, thị trấn Thanh Lãng, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ văn hóa:12/12; nghề nghiệp: Không; con ông Nguyễn Đăng Thịnh và bà Nguyễn Thị Loan; tiền án, tiền sự: Không.

Bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 08/01/2018 đến ngày 17/01/2018 được tại ngoại (có mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Khoảng 14 giờ ngày 08/01/2018, Nguyễn Đăng L đi xe buýt từ nhà lên thành phố Vĩnh Yên chơi. Khi lên đến thành phố Vĩnh Yên, L nảy sinh ý định mua ma túy heroin để sử dụng cho bản thân. L mượn điện thoại của một người đi đường gọi cho đối tượng quen biết ngoài xã hội có tên là Trường ở phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc hỏi mua của Trường 01 gói ma túy heroin với giá 400.000đ, Trường đồng ý và hẹn L đến khu vực cổng trường tiểu học Kim Ngọc, thuộc phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên để trao đổi, mua bán ma túy. Sau đó L đến địa điểm đã hẹn gặp Trường, khi gặp nhau L đưa cho Trường số tiền 400.000đ, Trường cầm tiền và bảo L 20 phút sau đến đầu ngõ 19, đường Trần Quốc Tuấn, Khu hành chính 4, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên để lấy ma túy heroin Trường để trong vỏ bao thuốc lá dưới một gốc cây. Khi L đi bộ đến ngõ 19, đường Trần Quốc Tuấn, thì nhìn thấy dưới gốc cây ở đầu ngõ 19 có 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Vinataba, L biết trong đó là ma túy heroin mà Trường bán cho mình, L nhặt bao thuốc lá lên và lấy ra được 01 gói ma túy heroin. Ngay lúc này, Tổ công tác Công an phường Đống Đa đang làm nhiệm vụ, phát hiện, kiểm tra, lập biên bản sự việc.

Tang vật thu giữ gồm: Thu giữ tại tay trái của Nguyễn Đăng L 01 vỏ bao thuốc lá nhãn hiệu Vinataba, bên trong bao thuốc lá có 01 gói giấy nhỏ chứa chất bột màu trắng, L khai nhận là ma túy heroin của L vừa mua với giá 400.000đ để sử dụng cho bản thân, được niêm phong trong phong bì thư ký hiệu A1.

Tại bản kết luận giám định số 30/KL-GĐ ngày 12/01/2018 của Phòng kỹ hình sự - Công an tỉnh Vĩnh Phúc kết luận: Chất bột, cục màu trắng của mẫu ký hiệu A1 gửi giám định là ma tuý lẫn tạp chất, loại Heroin. Heroin là chất ma tuý nằm trong danh mục I, TT 20, Nghị định 82 ngày 19/7/2013 của Chính phủ. Khối lượng (trọng lượng) của mẫu gửi đến giám định là 0,4633 gam (không phẩy bốn sáu ba ba gam, không kể bao bì). Khối lượng Heroin trong 0,4633gam mẫu là 0,1115g (Không phảy một một một năm gam). Hoàn lại mẫu vật còn lại sau giám định cho cơ quan trưng cầu gồm: 0,2709 gam mẫu và toàn bộ bao gói được niêm phong trong cùng một bao gói giấy “Mẫu trả”.

Về nguồn gốc số ma túy heroin thu giữ của Nguyễn Đăng L, quá trình điều tra L khai mua của một người nam giới quen biết ngoài xã hội tên Trường, L không biết họ, tên đệm và địa chỉ cụ thể của Trường, chỉ biết Trường nhà ở phường Đống Đa – thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc giá tiền 400.000đ, khi L vừa cầm 01 gói ma túy heroin thì bị Tổ công tác Công an phường Đống Đa đang làm nhiệm vụ, phát hiện, kiểm tra, lập biên bản sự việc như đã nêu trên.

Tại Cáo trạng số 55/CT-VKSTPVY ngày 03/5/2018, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Vĩnh Yên đã truy tố Nguyễn Đăng L về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa, bị cáo Nguyễn Đăng L khai nhận hành vi phạm tội của mình như nội dung đã nêu trên.

Người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng quá trình điều tra khai nhận phù hợp với nội dung Cáo trạng đã nêu trên (từ bút lục 57 đến bút lục 59).

Đại diện Viện kiểm sát luận tội đối với bị cáo, giữ nguyên quyết định truy tố như Cáo trạng. Căn cứ vào tính chất, mức độ phạm tội, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015, xử phạt bị cáo Nguyễn Đăng L từ 15 tháng tù đến 18 tháng tù. Áp dụng khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự năm 2015, tịch thu tiêu huỷ 0,2709g ma túy heroin cùng toàn bộ bao gói còn lại sau giám định.

Bị cáo Nguyễn Đăng L không bào chữa và tranh luận gì. Đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Lời khai nhận tội nêu trên của bị cáo Nguyễn Đăng L tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa phù hợp với nhau, phù hợp lời khai của người làm chứng về thời gian, địa điểm, thủ đoạn, mục đích, động cơ phạm tội và hậu quả do tội phạm gây ra, cùng các tang vật đã thu giữ, các tài liệu chứng cứ khác được thu thập khách quan đúng pháp luật có trong hồ sơ vụ án. Do đó có đủ căn cứ để kết luận: Khoảng 15 giờ ngày 08/01/2018, Tổ công tác Công an phường Đống Đa – thành phố Vĩnh Yên làm nhiệm vụ tại khu vực ngõ 19, đường Trần Quốc Tuấn, thuộc khu 4, phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc, thì phát hiện Nguyễn Đăng L đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, mục đích để sử dụng cho bản thân. Thu giữ tại tay trái của L 01 vỏ bao thuốc lá Vinataba, bên trong có 01 gói nhỏ chứa 0,4633g chất bột màu trắng, qua giám định là ma túy lẫn tạp chất, loại heroin, trọng lượng heroin trong mẫu vật giám định là 0,1115g.

Hành vi nêu trên của bị cáo Nguyễn Đăng L đã phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015 có khung hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm tù.

Hành vi phạm tội của bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an và an toàn trong xã hội, ảnh hưởng đến nòi giống, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người; gây ra một lớp người nghiện trong xã hội làm tác hại cho chính bản thân người nghiện và gia đình họ cũng như cho cộng đồng nói chung. Do vậy, cần phải xử lý thật nghiêm minh mới có tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung.

[2] Xét tính chất, mức độ nghiêm trọng của tội phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và nhân thân của người phạm tội, Hội đồng xét xử nhận thấy:

Bị cáo phạm tội theo khoản 1 Điều 249 của Bộ luật Hình sự năm 2015, có mức cao nhất của khung hình phạt đến 05 năm tù nên theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 9 của Bộ luật Hình sự thì trường hợp nêu trên thuộc tội phạm nghiêm trọng.

Trước khi phạm tội bị cáo là người có nhân thân tốt, chưa có tiền án, tiền sự nhưng do ăn chơi đua đòi bị cáo đã có hành vi phạm tội . Mặt khác, hiện tại trên địa bàn các tội phạm về ma túy đang có chiều hướng gia tăng, đây là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tội phạm khác trong xã hội. Do đó, cần chấp nhận đề nghị của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa để buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt tù một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục cải tạo bị cáo trở thành người lương thiện, người công dân có ích cho xã hội.

Khi quyết định hình phạt có xem xét đến tình tiết: “Tại Cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” để giảm nhẹ một phần hình phạt theo quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[3] Đối với nam giới tên Trường, L không biết họ, tên đệm và địa chỉ cụ thể của Trường, chỉ biết Trường nhà ở phường Đống Đa, thành phố Vĩnh Yên, tỉnh Vĩnh Phúc. L có số điện thoại của Trường là do một số bạn nghiện cho, do không có điện thoại nên L ghi số điện thoại của Trường ra một mảnh giấy, sau khi gọi được Trường để mua ma túy thì L đã vứt mảnh giấy này đi và bản thân không nhớ số điện thoại của Trường. Tiến hành xác minh tại Công an phường Đống Đa về người tên Trường có đặc điểm nhận dạng theo mô tả của L, kết quả chưa xác định được người này là ai, ở đâu. Do vậy, Cơ quan điều tra không có cơ sở xử lý.

[4] Về hình phạt bổ sung: Theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật Hình sự thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm trăm triệu đồng. Tuy nhiên, tại phiên tòa xác định bị cáo không có nghề nghiệp và thu nhập ổn định, tài sản không có gì nên Hội đồng xét xử quyết định miễn hình phạt bổ sung cho bị cáo.

[5] Về vật chứng: Đối với 0,2709g ma túy heroin cùng toàn bộ bao gói còn lại sau giám định, cần tịch thu để tiêu hủy.

[6] Về các vấn đề khác: Bị cáo phải chịu án phí theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Đăng L 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù về tội: “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt bị cáo đi thi hành án, nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam (từ ngày 08/01/2015 đến ngày 17/01/2018).

Căn cứ khoản 1 Điều 47 của Bộ luật Hình sự; khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự, tịch thu tiêu huỷ 0,2709g ma túy heroin cùng toàn bộ bao gói còn lại sau giám định.

(Đặc điểm tang vật như biên bản bàn giao vật chứng ngày 04/5/2018).

Căn cứ khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; Nghị quyết số 326/2016/UBTV-QH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về án phí, lệ phí Tòa án, bị cáo Nguyễn Đăng L phải chịu 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo Bản án trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2018/HSST ngày 30/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:61/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vĩnh Yên - Vĩnh Phúc
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 30/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về