Bản án 61/2018/HSST ngày 26/09/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 2, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

BẢN ÁN 61/2018/HSST NGÀY 26/09/2018 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

tại Trụ sở Tòa án nhân dân Quận 2, Thành phố Hồ Chí Minh (số 1400 đường Đồng Văn Cống, phường Thạnh Mỹ Lợi, Quận2, Thành phố Hồ Chí Minh) đã xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số:  59/2018/HSST ngày 13/9/2018 theo Quyết định đưa vụ ra xét xử số 85/2018/QĐX XST-HS ngày 13/9/2018 đối với bị cáo:

Phạm Phú Khương D, giới tính: Nam; sinh năm: 1988 tại Thành phố Hồ Chí Minh; nơi đăng ký hộ khẩu thường trú: 136/1A đường A, Phường B, quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; nơi cư trú: 106 Lô A5, Chung cư TML, phường TML, Quận C, Thành phố Hồ Chí Minh; quốc tịch: Việt Nam; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; trình độ học vấn: 9/12; nghề nghiệp: Không; con ông Phạm Phú G (chết) và bà Chung Thị Mộng L, sinh năm 1953; có vợ Trần Thị Phương N, sinh năm 1992, có 02 con lớn nhất sinh năm 2013, nhỏ nhất sinh năm 2016; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giam từ ngay 01/3/2017 đến nay, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 11 giờ 30 ngày 01/03/2017, Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy, Công an tỉnh Đồng Nai phát hiện bắt quả tang Vũ Ngọc D1, sinh năm: 1982, tru tai: khu phố 1, phường TH, thanh phố BH, tỉnh Đồng Nai đang cất giấu 24 đoạn ống nhựa hàn kín bên trong chứa chất bột màu trắng nghi vấn la heroine. Qua trinh điều tra D1 khai nhận 24 đoạn ống nhựa hàn kín bên trong chứa chất bột màu trắng trên là ma túy loại heroine do D1 mua về để phân nho bán lại cho cac con nghiên thu lơi bất chinh. Nguồn ma tuy trên D1 khai mua của một người phụ nữ tên N không rõ họ tên địa chỉ ở đia ban Thanh phố Hồ Chí Minh thông qua số điện thoại di động 0936012551. Do vây, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai đã đưa D1 đi truy xét xác minh N. Trên đương đưa D1 đi truy xet N thi N điên thoai cho D1 găp môt ngươi tên D ơ khu vưc cầu Rach Chiếc, Quân 2, Thành phố Hồ Chí Minh đê nhân ma tuy tư D. Khi tô tuần tra đưa D1 đến khu vưc Khu phố 2, phương An Phu, Quân 2 thi phat hiên đối tương Pham Phu Khương D co nhiều biêu hiên nghi vấn nên tiến hanh kiêm tra. Qua kiêm tra phát hiện Phạm Phú

Khương D cất giấu trong người 10 gói nylon hàn kín gồm: 06 (sáu) gói nylon màu xanh bên trong chứa chất bột màu trắng và 04 (bốn) gói nylon màu đỏ bên trong chứa chất bột màu trắng.

Qua trinh điều tra D khai là các chất bột màu trắng trên là ma túy loại heroine do người phụ nữ tên N có số điện thoại là 0936012551 giao cho D để bán cho con nghiện từ thanh phố Biên Hòa, tinh Đồng Nai đến khu vực cầu Rạch Chiếc, phường An Phú, Quận 2 lấy. Mỗi lần N giao cho D 10 đến 12 gói ma tuy, mỗi gói ma túy bán với giá 500.000 đồng. Trong qua trinh ban thi bán được 1.000.000 đồng thì D được hưởng 50.000 đồng tiền công. Sau khi bán hết ma tuy thi D điên thoai cho N va N cho người khác đến gặp D để lấy tiền.

Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy, Công an tỉnh Đồng Nai tiếp tuc khám xét khẩn cấp nơi ở của D tại số 106 Lô A5, chung cư Thạnh Mỹ Lợi, phường Thạnh Mỹ Lợi, Quận 2 thu giữ gồm: 09 gói nylon màu xanh hàn kín hai đầu bên trong chứa chất bột màu trắng.

Qua qua trinh điều tra do không xac đinh đươc ho tên cua N nên không truy tim va mơi N lên lam việc đươc. Ngoai ra D1 va D không quen biết nhau va chưa giao dich mua ban ma tuy vơi nhau lần nào nên chưa co căn cư xac đinh D1 va D liên quan đến cung môt vu án. Viêc phát hiên va bắt giữ D co hanh vi “mua bán trái phép chất ma túy” xảy ra tai địa ban Quân 2. Do vây Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về Ma túy, Công an tỉnh Đồng Nai đa chuyên giao đối tương Pham Phu Khương D cung tang vât đến Cơ quan Canh sat điều tra Công an Quân 2 đê thu ly điều tra theo thẩm quyền.

Vật chứng thu giữ:

- 06 (sáu) gói nylon màu xanh han kin bên trong chứa chất bột màu trắng.

Theo Bản kết luận giám định số 375/PC54 – GĐMT ngày 20/7/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai là chất ma túy ở thể rắn, loại: Heroine, có khối lượng (trọng lượng) ban đầu: 5,0049 gam.

- 04 (bốn) gói nylon màu đỏ bên trong chứa chất bột màu trắng. Theo Bản kết luận giám định số 375/PC54 – GĐMT ngày 20/7/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai là chất ma túy ở thể rắn, loại: Heroine, có khối lượng (trọng lượng) ban đầu: 1,5028 gam.

- 09 (chin) gói nylon màu xanh hàn kín bên trong chứa chất bột màu trắng.

Theo Bản kết luận giám định số 375/PC54 – GĐMT ngày 20/7/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai là chất ma túy ở thể rắn, loại: Heroine, có khối lượng (trọng lượng) ban đầu: 7,5811 gam.

- 01 (một) xe mô tô biên số 84H8 – 1595 nhan hiêu Yamaha, mau xanh bac số may: 001558, số khung: 001558. Qua trinh xác minh đươc biết chiếc xe trên do ba Lê Thi M, tru tai: 38 đương PHT, Khom X, Phương Y, thành phố Trà Vinh, tinh Trà Vinh đứng tên đăng ky chủ sơ hưu. Sau nhiều lần mua đi ban lai, hiên anh Nguyên Thanh T tru tai 106 lô A5 chung cư TML, phương TML, Quận 2 la người sử dụng  hợp pháp chiếc xe trên. Ngay 29/02/2017 anh T cho D mượn chiếc xe trên lam phương tiên đi lai. Viêc D sử dụng chiếc xe trên đi gây an anh T không biết. Do vây Cơ quan Canh sat điều tra Công an Quân 2 đa tra lai chiếc xe trên cho anh T.

- 01 điện thọai di đông hiệu Nokia màu xanh xám có imei: 351506049407 894, số sim: 01228978689. Đây là điện thoại  D sử dụng để liên lạc với N trong trong việc giao dich mua bán ma túy.

- Số tiền 1.500.000 đồng. Đây la tiền cá nhân của D.

Đối với đối tượng Vũ Ngọc D1 hiện đã bị Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an tỉnh Đồng Nai khởi tố xử lý về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Tại phiên tòa, bị cáo đã khai nhận toàn bộ hành vi của mình như trên, bị cáo đồng ý với các kết luận giám định và không có ý kiến gì khác. Đối với việc xử lý vật chứng của vụ án, bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử giải quyết theo quy định của pháp luật và không có ý kiến gì thêm.

Bản Cáo trạng số 58/CT-VKS ngày 13 tháng 9 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 2 đã truy tố bị cáo Phạm Phú Khương D về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo điểm h khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố luận tội và tranh luận:

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thừa nhận toàn bộ hành vi phạm tội như Cáo trạng đã nêu. Đây là vụ án do Pham Phu Khương D đa co hanh vi tang trữ chất ma túy ở thể rắn, loại Heroine, có khối lượng (trọng lượng) ban đầu là 14,1068 gam để ban lại cho các con nghiên kiếm tiền chênh lệch thi bi phát hiên bắt giư cung tang vât. Do vậy hanh vi của D đủ yếu tố cấu thanh tôi “Mua bán trai phep chất ma túy”, cần xư ly nghiêm minh.

Tuy nhiên, trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay bị cáo thành khẩn khai báo, có thái độ ăn năn hối cải nên đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ cho bị cáo một phần hình phạt theo điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Đại diện Viện kiểm sát nhân dân Quận 2 giữ nguyên quan điểm truy tố đối với các bị cáo và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm h khoan 2 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009:

Xử phạt: Bị cáo Phạm Phú Khương D từ 07 năm đến 09 năm tù.

Bị cáo không tự bào chữa, không tranh luận và nói lời sau cùng:

Bị cáo D: Bị cáo biết lỗi bị cáo rất ăn năn, bị cáo hứa sẽ không tái phạm, xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

Về hành vi:

Quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã được thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục theo quy định của pháp luật. Quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định tố tụng của

Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thừa nhận hành vi phạm tội của mình, bị cáo đã có hành vi tàng trữ ma túy ở thể rắn, loại Heroine, có khối lượng (trọng lượng) ban đầu là 14,1068 gam để ban lai cho các con nghiên kiếm tiền chênh lệch thi bi phat hiên bắt giư cung tang vât. Lời khai của bị cáo tại phiên tòa phù hợp với lời khai của bị cáo tại Cơ quan điều tra, lời khai của người làm chứng, biên bản bắt người phạm tội quả tang, kết luận giám định ... và phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, có đủ cơ sở kết luận hành vi của bị cáo đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, như kết luận của Kiểm sát viên.

Hội đồng xét xử đánh giá tính chất vụ án là nghiêm trọng. Bản thân bị cáo là công dân, biết rất rõ tác hại của ma tuý và đường lối xử lý của pháp luật. Song do nghiện ma túy và muốn thỏa mãn cơn nghiện nên bị cáo vẫn cố tình thực hiện hành vi phạm tội. Hành vi của bị cáo đã xâm phạm chính sách quản lý độc quyền của Nhà nước về các chất gây nghiện, tiếp tay cho tệ nạn ma tuý ngày càng phát triển, là nguyên nhân phát sinh nhiều loại tội phạm khác, gây mất trật tự trị an xã hội. Vì vậy, Hội đồng xét xử xét thấy cần phải xử lý nghiêm đối với bị cáo mới có tác dụng giáo dục bị cáo và răn đe phòng chống tội phạm trong xã hội.

Về tình tiết tăng nặng định khung hình phạt:

Số lượng Heroin mà bị cáo tàng trữ để bán cho con nghiện là 14,1068 gam, đã vi phạm vào tình tiết định khung tăng nặng hình phạt là: Heroine hoăc cocain co trong lương tư năm gam đến dươi ba mươi gam, quy định tại điểm h khoản 2 Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, nên cần phải áp dụng đối với bị cáo.

Về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt đối với bị cáo:

Bị cáo không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự khác. Xét trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử tại phiên tòa hôm nay, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo phạm tội lần đầu, gia đình có hoàn cảnh khó khăn, bị cáo là lao động chính đang nuôi hai con còn nhỏ, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009, nên áp dụng để giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

Về vật chứng:

Đối với: 06 (sáu) gói nylon màu xanh han kin bên trong chứa chất bột màu trắng. Theo Bản kết luận giám định số 375/PC54 – GĐMT ngày 20/7/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai là chất ma túy ở thể rắn, loại: Heroine, có khối lượng (trọng lượng) ban đầu: 5,0049 gam; 04 (bốn) gói nylon màu đỏ bên trong chứa chất bột màu trắng. Theo Bản kết luận giám định số 375/PC54 – GĐMT ngày 20/7/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai là chất ma túy ở thể rắn, loại: Heroine, có khối lượng (trọng lượng) ban đầu: 1,5028 gam; 09 (chin) gói nylon màu xanh hàn kín bên trong chứa chất bột màu trắng. Theo Bản kết luận giám định số 375/PC54 – GĐMT ngày 20/7/2018 của Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Đồng Nai là chất ma túy ở thể rắn, loại: Heroine, có khối lượng (trọng lượng) ban đầu: 7,5811 gam. Xét đây là tang vật của vụ án là chất cấm lưu hành, không có giá trị sử dụng nên tịch thu tiêu hủy.

Đối với: 01 điên thoai di đông hiêu Nokia màu xanh xam có imei: 35150604 9407894, số sim: 01228978689. Đây la điên thoai D sử dung dung đê liên lac vơi Ngọc trong việc giao dich mua bán ma tuy. Xét đây là công cụ phương tiện bị cáo dùng vào việc phạm tội nên tịch thu sung quỹ Nhà nước.

- Số tiền 1.500.000 đồng. Đây la tiền ca nhân cua D không liên quan đến vụ án nên trả lại cho D.

Bị cáo phải nộp án phí và có quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ nêu trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Phạm Phú Khương D phạm tội “Mua bán trai phep chất ma tuy”.

- Áp dụng điểm h khoản 2 Điều 194; điểm p khoản 1, khoản 2 Điều 46; Điều 33 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009:

Xử phạt bị cáo Phạm Phú Khương D 07 (bảy) năm tù.

Thời hạn tù tính từ ngày 01/3/2017.

2. Về vật chứng: Áp dụng Điều 41 Bộ luật Hình sự năm 1999, sửa đổi, bổ sung năm 2009; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy: 01 phong bì được niêm phong kí hiệu số 375/PC54-GĐMT có các chữ ký ghi họ tên GĐV Phạm Thị Hương Mai, Phạm Trung Kiên và hình dấu Công an Phòng Kỹ thuật Hình sự Công an tỉnh  Đồng Nai. Bên trong có hai phong bì chưa Heroin.

+ Tịch thu sung quỹ Nhà nước : 01 điên thoai di đông hiêu Nokia mau xanh xam co imei: 351506049407894.

Trả lại cho bị cáo D số tiền 1.500.000 (một triệu năm trăm ngàn) đồng.

(Theo Quyết định chuyển vật chứng số 29/QĐ ngày 15/6/2017 và Quyết định chuyển vật chứng số 32/QĐ ngày 15/9/2018 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 2).

3. Về án phí: Áp dụng Điều 135, 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp quản lý và sử dụng về án phí, lệ phí Tòa án:

Buộc bị cáo nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

“Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự, thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự”.

4. Về quyền kháng cáo: Bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

227
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2018/HSST ngày 26/09/2018 về tội mua bán trái phép chất ma túy

Số hiệu:61/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Quận 2 (cũ) - Hồ Chí Minh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 26/09/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về