Bản án 61/2018/HSST ngày 23/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN Y, TỈNH BẮC NINH

BẢN ÁN 61/2018/HSST NGÀY 23/05/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TUÝ

Ngày 23 tháng 5 năm 2018, tại trụ sở Toà án nhân dân huyện Y, tỉnh Bắc Ninh mở phiên toà để xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 54/2018/HSST ngày 19/4/2018, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 60/2018/QĐXXST-HS ngày 09/5/2018 đối với bị cáo:

Họ và tên: Nguyễn Văn S, sinh năm 1995.

Nơi cư trú: Thôn Th, xã Y, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh.

Nghề nghiệp: Không nghề nghiệp; trình độ học vấn: Lớp 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: Nam; tôn giáo: Không; quốc tịch: Việt Nam; Bố đẻ: Không xác định và mẹ đẻ Nguyễn Thị i; Vợ, con: Chưa có; tiền án, tiền sự: Không.

Bị cáo bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 10/02/2018 đến nay tại Trại tạm giam công an tỉnh Bắc Ninh. Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 17 giờ 45 phút ngày 09/02/2018, tại trước cửa quán Karaoke PM ở thôn Ấ, xã Y, huyện Y, tỉnh Bắc Ninh, Công an huyện Y phối hợp với Công an xã Y bắt quả tang Nguyễn Văn S đang có hành vi cất giữ trái phép 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng trong túi quần dài phía trước bên phải của S đang mặc. S khai đó là ma túy đá S vừa mua về để sử dụng.

Vật chứng thu giữ gồm: 01 túi nilon màu trắng, bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng.

Tại bản kết luận giám định số 289/KLGĐMT-PC54 ngày 10/02/2018 của Phòng KTHS Công an tỉnh Bắc Ninh kết luận: “Các hạt tinh thể màu trắng bên trong 01 túi nilon màu trắng có khối lượng 0,2019 gam; là: Ma túy; loại ma túy: Methamphetamine”.

Tại bản Cáo trạng số 49/CTr-VKSYP ngày 18/4/2018 của Viện trưởng VKSND huyện Y, tỉnh Bắc Ninh đã truy tố Nguyễn Văn S về tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” theo khoản 1 Điều 249 Bộ luật hình sự (BLHS).

Tại phiên toà, Nguyễn Văn S thừa nhận Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố hành vi phạm tội của bị cáo là đúng và khai nhận: S sử dụng ma túy từ năm 2017 nên buổi chiều ngày 09/02/2018, S bắt xe ôm của một người đàn ông không quen biết từ nhà lên bến xe thành phố B để mua ma túy về sử dụng. Đến nơi S gặp một người đàn ông không quen biết, S hỏi mua 300.000đ ma túy, người đàn ông cầm tiền và đưa cho S 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng. S cầm gói ma túy cho vào túi quần dài phía trước bên phải đang mặc rồi bắt xe ôm về huyện Y để sử dụng. Khi đi đến trước cửa quán Karaoke PM ở thôn Ấ, xã Y, huyện Y thì bị lực lượng công an kiểm tra và thu giữ ở túi quần dài phía trước S đang mặc 01 gói nilon màu trắng bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng là ma túy đá.

Chị Phạm Thị L và chị Trần Ngọc D - Người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa nhưng theo lời khai tại cơ quan điều tra (CQĐT) có trong hồ sơ thể hiện: Khoảng 17 giờ 45 phút ngày 09/02/2018 chị L và chị D đang ở gần quán Karaoke PM thì thấy lực lượng công an tiến hành kiểm tra Nguyễn Văn S và thấy lực lượng công an thu giữ tại túi quần dài phía trước bên phải S đang mặc 01 gói nhỏ bằng nilon bên trong chứa các hạt tinh thể màu trắng, S khai đó là ma túy đá mới mua để sử dụng. Lực lượng công an niêm phong túi nilon đó và đưa S về trụ sở giải quyết.

Đại diện VKSND huyện Y thực hành quyền công tố tại phiên toà đã khẳng định: Khoảng 17 giờ 45 phút ngày 09/02/2018, Nguyễn Văn S đã có hành vi cất giữ trái phép 0,2019 gam Methamphetamine nên đã giữ nguyên Cáo trạng và đề nghị Hội đồng xét xử (HĐXX) tuyên bố Nguyễn Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Sau khi phân tích tính chất vụ án, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cũng như nhân thân của bị cáo đã đề nghị HĐXX áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng Hình sự xử phạt Nguyễn Văn S từ 15-18 tháng tù.

Về vật chứng: Đề nghị tịch thu tiêu huỷ số ma tuý còn lại sau giám định. Bị cáo không có ý kiến tranh luận.

Lời nói sau cùng của bị cáo: Xin HĐXX xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa, căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, bị cáo tại phiên toà.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Lời khai nhận của bị cáo phù hợp với các chứng cứ và tài liệu đã được thẩm tra taị phiên toà, phù hợp với kết quả tranh luận tại phiên toà thể hiện: Khoảng 17 giờ 45 phút ngày 09/02/2018 tại trước cửa quán Karaoke PM ở thôn Ấp Đ, xã Y, huyện Y, Nguyễn Văn S đã có hành vi cất giữ trái phép 0,2019 gam Methamphetamine để sử dụng. Do vậy đại diện VKSND huyện Yên Phong thực hành quyền công tố tại phiên toà đề nghị HĐXX tuyên bố bị cáo phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý” là có căn cứ, đúng pháp luật.

Bị cáo phạm tội không phải có tổ chức và khối lượng cất giữ trái phép là 0,2019 gam Methamphetamine để sử dụng nên hành vi của bị cáo đã phạm vào điểm c khoản 1 Điều 249 BLHS.

Xét tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo thì thấy: Hành vi của bị cáo đã trực tiếp xâm phạm chính sách độc quyền quản lý của Nhà nước về chất ma tuý, xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội. Do vậy hành vi của bị cáo cần được xử lý nghiêm nhằm giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Không có tình tiết tăng nặng đối với bị cáo.

Về tình tiết giảm nhẹ: Bị cáo từ trước đến nay chưa có sai phạm gì, sau khi phạm tội đã thành khẩn khai báo. Đây là tình tiết giảm nhẹ được qui định tại điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS nên cũng cần xem xét giảm nhẹ cho bị cáo khi quyết định hình phạt.

Căn cứ tính chất của vụ án thấy cần buộc bị cáo cách ly xã hội một thời gian nhằm giáo dục và cải tạo.

Bị cáo là đối tượng nghiện ma túy, không có tài sản riêng nên không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với bị cáo.

*Về nguồn gốc số ma túy: S khai mua của người đàn ông ở khu vực bến xe thành phố B nhưng không biết tên, tuổi cũng như địa chỉ cụ thể của người đàn ông đó nên CQĐT không đủ căn cứ xác minh làm rõ.

Đối với người đàn ông lái xe ôm chở S đi mua ma túy, khi đi S không nói với người đàn ông đó mục đích đi mua ma túy để sử dụng nên CQĐT công an huyện Y không đề cập xử lý là phù hợp.

*Về vật chứng: CQĐT thu giữ 0,2019 gam Methamphetamine, qua giám định khối lượng còn lại sau giám định là 0,1056 gam. Đây là vật liên quan trực tiếp đến hành vi phạm tội, giá trị sử dụng không có nên cần tịch thu tiêu huỷ.

Bị cáo phải chịu án phí theo luật định.

Vì các lẽ trên

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Nguyễn Văn S phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38; Điều 47 BLHS; Điều 106; Điều 136; Điều 329 BLTTHS; Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội qui định về mức thu, miễn giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án; Điều 26 Luật thi hành án dân sự (LTHADS).

Phạt: Nguyễn Văn S 14 (Mười bốn) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 10/02/2018. Tạm giam bị cáo 45 ngày kể từ ngày tuyên án (23/5/2018) theo Quyết định tạm giam của Hội đồng xét xử.

*Về vật chứng: Tịch thu 0,1056 gam Methamphetamine còn lại sau giám định để tiêu hủy.

*Về án phí: Bị cáo phải chịu 200.000đ án phí hình sự sơ thẩm.

Bị cáo có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Trường hợp bản án được thi hành theo qui định tại Điều 2 LTHADS thì người phải thi hành án có quyền tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo qui định tại các Điều 6, 7 và 9 LTHADS. Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo qui định tại Điều 30 LTHADS.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

171
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 61/2018/HSST ngày 23/05/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma tuý

Số hiệu:61/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Yên Phong - Bắc Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 23/05/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về