Bản án 60/2021/HS-ST ngày 11/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ V, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 60/2021/HS-ST NGÀY 11/03/2021 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 09 tháng 3 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự thụ lý số 09/2021/TLST- HS ngày 20 tháng 01 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 36/2021/QĐXXST-HS ngày 24 tháng 02 năm 2021, đối với bị cáo:

Nguyễn Duy P, sinh năm 1986 tại tỉnh Đồng Nai; Hộ khẩu thường trú: Thôn 1, xã S, huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu; chỗ ở: Không có nơi cư trú ổn định; trình độ văn hóa: 4/12; nghề nghiệp: không; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Thiên chúa; quốc tịch: Việt Nam; giới tính: Nam; cha tên Nguyễn Văn L, sinh năm 1948 và mẹ tên Đỗ Thị H, sinh năm 1954; gia đình có 08 (tám) anh chị em, bị cáo là con thứ 07 (bảy) trong gia đình;

Tiền án:

- Bản án số 10 ngày 13/12/2007, bị TAND thị xã B, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 04 năm tù về tội “Cướp giật tài sản”. Chấp hành xong hình phạt ngày 07/05/2011.

- Bản án số 47 ngày 22/08/2012, bị TAND huyện c, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 08 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, Chấp hành xong hình phạt ngày 18/01/2013.

- Bản án số 48 ngày 23/08/2013, bị huyện C, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xử phạt 02 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, chấp hành xong hình phạt ngày 28/02/2015. Chấp hành án phí HSST ngày 29/10/2020.

Tiền sự: Không

Bị cáo bị bắt ngày 23 tháng 10 năm 2020, hiện đang bị tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố V (bị cáo có mặt).

- Bị hại:

1. Anh Nguyễn Đình L (sinh năm: 1988; nơi cư trú: khu phố H, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu (vắng mặt).

2. Cháu Nguyễn Minh P, sinh năm 2004 (có đơn xin giải quyết vắng mặt)

Người đại diện hợp pháp cho cháu Phú: Ông Trần Quyết Thắng, sinh năm 1984; địa chỉ: Ấp L, xã L, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu (vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Nguyễn Duy P là đối tượng có nhiều tiền án về các tội “Cướp tài sản”, “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” chưa được xóa án tích. Trong khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 10 năm 2020, P đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố V và địa bàn huyện Đ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Vào khoảng hơn 10 giờ ngày 22/7/2020, Nguyễn Duy P cùng Nguyễn Đình L (sinh năm: 1988; nơi cư trú: khu phố H, thị trấn L, huyện L, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu) đến tiệm sửa xe “Thắng” tại ấp P, xã P, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu để sửa xe. Tại đây, cả hai phát hiện 01 điện thoại di động hiệu Vivo Y91C của anh Nguyễn Minh P (sinh năm: 2004; nơi cư trú: ấp L, xã L, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, là nhân viên sửa xe của tiệm) đang được để trên máy ép vỏ xe ở trong tiệm sửa xe nên đã nảy sinh ý định trộm cắp tài sản. L ngồi chỉ các bộ phận hư hỏng ở trên xe cho anh P sửa để làm anh P mất cảnh giác. Cùng lúc, P lấy trộm chiếc điện thoại trên rồi bỏ vào túi quần và đi ra, P vừa đi ra vài bước thì chiếc điện thoại đổ chuông nên anh P phát hiện bị mất trộm điện thoại và truy hô. Lúc này, L lấy xe ra nổ máy, P nhảy lên xe của L bỏ chạy, chạy được khoảng 30 phút thì xe bị ngã nên L bị bắt, còn P tiếp tục chạy và trốn được. Quá trình P bỏ chạy đã làm rớt chiếc điện thoại trộm được nên không thu giữ được.

Theo kết luận định giá tài sản số: 32/KL-HĐĐGTS ngày 03/8/2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân huyện Đ kết luận chiếc điện thoại di động hiệu Vivo Y91C trị giá: 1.100.000 đồng.

Vụ thứ hai: Vào khoảng 01 giờ 45 phút ngày 23/10/2020, Nguyễn Duy P điều khiển xe mô tô từ thị trấn L đến thành phố V với mục đích xin đi ghe để kiếm tiền. Sau khi vào một tiệm Internet tại Phường 11, thành phố V để chơi game thì hết tiền nên P tiếp tục đi xuống cảng B theo đường B để xin việc. Khi đi đến trước công trình xây dựng số 41-A21 đường B, Phường C, thành phố V, P phát hiện cửa công trình không khóa, chỉ có hàng rào B40. Quan sát vào trong công trình, P thấy anh Vũ Nguyên G (sinh năm: 1996; nơi cư trú: 135/31 đường L, phường T, thành phố V, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu) đang nằm ngủ bên trong, bên cạnh anh G có để 01 chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi Redmi Note 9 Pro (đằng sau ốp có để số tiền 140.000 đồng) nên P nảy sinh ý định trộm cắp chiếc điện thoại di động trên, p vào trong công trình lấy chiếc điện thoại trên cất vào túi quần rồi đi ra ngoài lấy xe tẩu thoát. Lúc này, anh Nguyễn Nhật H (hàng xóm của anh G số nhà 41A23 đường B) đi làm về, thấy P có dấu hiệu nghi vấn nên gọi anh G dậy kiểm tra thì anh G phát hiện mất chiếc điện thoại nên anh G chở anh H đi tìm P. Khi đi đến ngã ba đường L - đường B thì phát hiện P đang chạy xe máy trên đường nên phối hợp với quần chúng nhân dân bắt giữ P cùng tang vật giao cho Công an Phường C, thành phố V xử lý.

Theo Kết luận định giá tài sản số 198/KL-HDDG-TTHS ngày 02/11/2020 của Hội đồng định giá tài sản tố tụng hình sự thành phố V kết luận điện thoại di động hiệu Xiaomi (Readmi) Note 9 Pro, số Imei: 860295041721122 có trị giá 3.700.000 đồng.

Tại cơ quan điều tra, Nguyễn Duy p đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội nêu trên. (Bút lục điều tra từ số 31-36 và từ 56 - 62)

Quá trình điều tra, Nguyễn Duy P thành khẩn khai báo ăn năn hối cải, bị can P phạm tội nhiều lần.

- Việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và xử lý vật chứng:

+ Thu giữ của Nguyễn Duy P: 01 (một) điện thoại di động hiệu Xiaomi (Readmi) Note 9 Pro, số Imei: 860295041721122. số tiền 140.000 đồng.

+ Thu giữ của Nguyễn Đình L: 01 (một) xe mô tô hiệu ESPERO, màu xanh, biển số 72C1-915.12, số khung: RPEKCB3PEJA339253, số máy: VDEJQ139FMB2339253 và 01 (một) con dao dài khoảng 24cm, cán bằng nhựa màu đen, lưỡi bằng kim loại.

- Xử lý vật chứng: Cơ quan CSĐT Công an thành phố V đã ra Quyết định xử lý vật chứng số 122/QĐ-Đ1 ngày 18/11/2020 trả lại cho anh Vũ Nguyên G chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi (Readmi) Note 9 Pro và số tiền 140.000 đồng;

+ Đối với chiếc xe mô tô hiệu ESPERO, màu xanh, BKS: 72C1-915.12, số khung: RPEKCB3PEJA339253, số máy: VDEJQ139FMB2339253 là tang vật thuộc vụ án khác hiện đang được Đội Cảnh sát hình sự, Công an thành phố V thụ lý nên đã bàn giao tang vật trên cho Đội Cảnh sát hình sự.

+ Đối với con dao dài khoảng 24cm, cán bằng nhựa màu đen, lưỡi bằng kim loại, Công an huyện Đ đã tiến hành tịch thu và tiêu hủy theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 166/QĐ-XPHC ngày 17/9/2020.

- Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại không có yêu cầu bồi thường thiệt hại;

Tại Bản cáo trạng số 22/CT-VKS ngày 15/01/2021, Viện kiểm sát nhân dân thành phố V đã truy tố Nguyễn Duy P về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại phiên tòa:

Đại diện Viện kiểm sát giữ nguyên cáo trạng nội dung truy tố về tội danh, khung hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Duy P về tội “Trộm cắp tài sản”, đồng thời đề nghị Hội đồng xét xử:

- Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51, điểm g khoản 1 Điều 52 và Điều 38 Bộ luật Hình sự đề nghị xử phạt bị cáo Nguyễn Duy P từ 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng đến 03 (ba) năm tù.

Về trách nhiệm dân sự: Các bị hại không yêu cầu bồi thường, đề nghị không xem xét.

Về xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong đề nghị không xem xét.

Bị cáo Nguyễn Duy P đã khai nhận về toàn bộ hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Khi nói lời sau cùng, bị cáo thể hiện ăn năn, hối cải và xin được giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra, Điều tra viên, Viện kiểm sát, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội của bị cáo: Tại phiên tòa, bị cáo khai nhận hành vi phạm tội của mình như đã nêu trên. Lời khai nhận tội của bị cáo hoàn toàn phù hợp với lời khai của bị cáo tại cơ quan điều tra, lời khai của bị hại, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, vật chứng và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án, thể hiện: Trong khoảng thời gian từ tháng 7 đến tháng 10 năm 2020, P đã thực hiện 02 vụ trộm cắp tài sản trên địa bàn thành phố V và địa bàn huyện Đ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, cụ thể như sau:

Vụ thứ nhất: Khoảng hơn 10 giờ ngày 22/7/2020, tại tiệm sửa xe “Thắng” thuộc ấp P, xã P, huyện Đ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu, Nguyễn Duy P cùng với Nguyễn Đình L đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 (một) điện thoại di động hiệu Vivo Y91C của anh Nguyễn Minh P trị giá 1.100.000 đồng.

Vụ thứ 2: Vào khoảng 01 giờ 45 ngày 23/10/2020, tại địa chỉ số 41-A21 đường B, Phường C, thành phố V, Nguyễn Duy P đã thực hiện hành vi trộm cắp 01 chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi (Readmi) Note 9 Pro trị giá 3.700.000 đồng và 140.000 đồng của anh Vũ Nguyên G. Tổng giá trị tài sản mà Nguyễn Duy P đã chiếm đoạt của các bị hại là 4.940.000 đồng (Bốn triệu chín trăm bốn mươi nghìn đồng);

Bị cáo có 03 tiền án, chua được xóa án tích, đã tái phạm nguy hiểm nay lại tiếp tục phạm tội do cố ý nên hành vi của bị cáo thực hiện đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” quy định tại điểm g khoản 2 Điều 173 Bộ luật hình sự.

[3] Về tính chất, mức độ đối với hành vi phạm tội của bị cáo: Xét tính chất, mức độ do hành vi phạm tội bị cáo đã gây ra là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm quyền sở hữu tài sản của bị hại được pháp luật bảo vệ, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự tại địa P. Bị cáo là thanh niên đã trưởng thành, biết việc chiếm đoạt tài sản của người khác là vi phạm pháp luật, bị nhà nước xử lý nghiêm minh nhưng do lười lao động, tham lam lợi ích vật chất nên bị cáo vẫn cố ý thực hiện hành vi phạm tội nhằm mục đích có tiền tiêu xài cá nhân. Bị cáo từng bị xử phạt về nhiều hành vi phạm tội, sau khi trở về hòa nhập với xã hội bị cáo không lấy đó làm bài học mà còn tiếp tục dấn thân vào con đường phạm tội. Vì vậy, cần phải xử lý nghiêm, tuyên mức hình phạt phù hợp, tương xứng với hành vi, tính chất, mức độ phạm tội nhằm cải tạo, giáo dục riêng bị cáo, đồng thời bảo đảm răn đe, phòng ngừa tội phạm chung.

[4] Về tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:

[4.1] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Trong khoảng thời gian ngắn, bị cáo đã thực hiện hai vụ trộm cắp trên nhiều địa P khác nhau. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết tăng nặng quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 Bộ luật hình sự để lượng hình đối với bị cáo.

[4.2] Về tình tiết giảm nhẹ: Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo đã thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình. Vì vậy, Hội đồng xét xử áp dụng tình tiết giảm nhẹ được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật hình sự để xem xét khi lượng hình đối với bị cáo.

[5] Về trách nhiệm dân sự: Bị hại là anh Vũ Nguyên G và cháu Nguyễn Minh P, ông Trần Quyết T đã nhận lại tài sản và không yêu cầu gì thêm.

[6] Về xử lý vật chứng: Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thành phố V đã ra quyết định xử lý vật chứng, trả lại cho anh Vũ Nguyên G chiếc điện thoại di động hiệu Xiaomi (Readmi) Note 9 Pro và số tiền 140.000 đồng là có căn cứ.

Đối với chiếc xe mô tô hiệu ESPERO, màu xanh, BKS: 720-915.12, số khung: RPEKCB3PEJA339253, số máy: VDEJQ139FMB2339253 là tang vật thuộc vụ án khác hiện đang được Đội Cảnh sát hình sự, Công an thành phố V thụ lý nên đã bàn giao tang vật trên cho Đội Cảnh sát hình sự.

Đối với con dao dài khoảng 24cm, cán bằng nhựa màu đen, lưỡi bằng kim loại, Công an huyện Đ đã tiến hành tịch thu và tiêu hủy theo Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 166/QĐ-XPHC, ngày 17/9/2020.

[7] Về án phí: Bị cáo Nguyễn Duy P phải nộp án phí hình sự sơ thẩm theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố: Bị cáo Nguyễn Duy P phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng điểm g khoản 2 Điều 173; điểm s khoản 1 Điều 51; điểm g khoản 1 Điều 52; Điều 38 Bộ luật Hình sự.

- Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Duy P 02 (hai) năm 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù được tính từ ngày 23 tháng 10 năm 2020.

2. Về trách nhiệm dân sự: Đã giải quyết xong nên không xem xét.

3. Về xử lý vật chứng: Đã giải quyết xong nên không xem xét.

4. Án phí: Bị cáo Nguyễn Duy P phải nộp 200.000đ (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Quyền kháng cáo: Bị cáo, bị hại có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày tính từ ngày tuyên án. Đối với người có quyền kháng cáo vắng mặt tại phiên tòa, thời hạn kháng cáo nêu trên tính từ ngày nhận được bản án hoặc ngày bản án được niêm yết, để yêu cầu Tòa án nhân dân tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu xét xử lại vụ án theo thủ tục phúc thẩm

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

184
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2021/HS-ST ngày 11/03/2021 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:60/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Vũng Tàu - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 11/03/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về