Bản án 60/2021/HS-ST ngày 02/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ MÓNG CÁI, TỈNH QUẢNG NINH

BẢN ÁN 60/2021/HS-ST NGÀY 02/06/2021 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 02 tháng 6 năm 2021, tại trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 48/2021/TLST-HS ngày 13 tháng 4 năm 2021, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 57/2021/QĐXXST-HS ngày 20 tháng 5 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Họ và tên: Lò Văn K (tên gọi khác: không); sinh ngày 20 tháng 7 năm 1991, tại huyện T, tỉnh Sơn La; Nơi đăng ký thường trú: bản P, xã P, huyện T, tỉnh Sơn La; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 9/12; dân tộc: Thái; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lò Văn N, sinh năm: 1950 và bà Quàng Thị D, sinh năm: 1958; vợ, con: chưa; tiền án: chưa; tiền sự: Ngày 19/10/2020, Ủy Ban nhân dân xã Púng Tra, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La áp dụng biện pháp giáo dục tại xã từ ngày 19/10/2020 đến ngày 19/01/2021.

Ngày 14/11/2020, Công an xã Púng Tra, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La xử phạt vi phạm hành chính bằng hình thức phạt tiền về hành vi “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Bị cao bị bắt quả tang ngày 30/12/2020, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt tại phiên tòa.

2. Họ và tên: Quàng Văn B (tên gọi khác: không); sinh ngày 29 tháng 10 năm 1987, tại huyện Đ, tỉnh Điện Biên; Nơi đăng ký thường trú: bản P, xã N, huyện Đ, tỉnh Điện Biên; nghề nghiệp: không; trình độ học vấn: 2/12; dân tộc: Thái; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Quàng Văn T, sinh năm: 1969 và bà Lù Thị S, sinh năm 1970; Vợ: Vì Thị V, sinh năm 1987; Có 02 con (lớn sinh năm 2015, nhỏ sinh năm 2017); tiền án, tiền sự: chưa.

Bị cao đầu thú ngày 31/12/2020, hiện tạm giam tại Nhà tạm giữ Công an thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh. Có mặt tại phiên tòa.

- Người chứng kiến: Anh Hoàng Văn C, sinh năm 1970; Nơi cư trú: khu 5, xã H, thành phố M, tỉnh Quảng Ninh. Vắng mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau: Lò Văn K và Quàng Văn B làm công nhân bốc vác và ở trọ cùng nhau tại khu 3, phường H, thành phố Móng Cái. Chiều ngày 30/12/2020, K đang ở phòng trọ, thì B gọi điện rủ K góp tiền (K góp 50.000 đồng, B góp 150.000 đồng) đi mua ma túy về cùng sử dụng, K đồng ý. Sau đó, K gọi điện cho một người đàn ông tên là P (không rõ lai lịch, địa chỉ) hỏi mua ma túy và thông báo lại với B biết. Khoảng 15 phút sau, B từ chỗ làm quay về phòng trọ đưa cho K 150.000 đồng, rồi đi làm tiếp. K gọi điện cho P hỏi mua 200.000 đồng ma túy Heroine và được P hẹn đến khu vực Trung tâm văn hóa thành phố Móng Cái để giao dịch. K đón xe ôm đến nơi hẹn, gặp và mua của P 01 túi ma túy Heroine với giá 200.000 đồng rồi đi tìm B để cùng sử dụng. Khoảng 15 giờ 40 phút cùng ngày, khi K đi bộ đến khu vực đối diện khách sạn S thuộc thôn 5, xã H, thành phố M, thì bị Công an xã Hải Xuân phát hiện, bắt quả tang. Thu giữ trong lòng bàn tay trái của K: 01 túi nilon kích thước (2x3)cm, chứa chất bột màu trắng ngà; 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Nokia.

Ngày 31/12/2020, biết hành vi phạm tội của mình đã bị phát hiện, Quàng Văn B ra Công an thành phố Móng Cái đầu thú và giao nộp 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Samsung.

Tại Bản kết luận giám định số 206/KLGĐ ngày 04/01/2021, của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh kết luận: Chất bột màu trắng trong túi nilon thu giữ khi bắt quả tang Lò Văn K là ma túy, loại Heroine; khối lượng 0,236 (không phẩy hai ba sáu) gam.

Trong quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo Lò Văn K, Quàng Văn B có lời khai như nội dung vụ án. Ngoài ra K còn khai nhận nguồn gốc số ma túy trên do K mua của người đàn ông tên là P với giá 200.000 đồng, với mục đích sử dụng. K không biết lai lịch, địa chỉ của người đàn ông tên P bán ma túy cho K.

Người chứng kiến anh Hoàng Văn C trong quá trình điều tra có nội dung lời khai thể hiện anh được chứng kiến lực lượng công an tiến hành kiểm tra đối với Lò Văn K, phát hiện và thu giữ trong lòng bàn tay trái 01 (một) gói nilon trong suốt bên trong chứa chất bột màu trắng, K khai nhận chất bột màu trắng là ma túy, loại Heroine.

Quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ của đối tượng bán ma túy cho Lò Văn K.

Tại bản Cáo trạng số 55/CT-VKS-MC, ngày 13/4/2021 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái truy tố các bị cáo Lò Văn K, Quàng Văn B về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự;

Tại phiên tòa, Đại diện Viện kiểm sát thực hành quyền công tố đã giữ nguyên quyết định truy tố và luận tội đối với các bị cáo Lò Văn K, Quàng Văn B; sau khi phân tích nội dung vụ án, tính nguy hiểm của hành vi phạm tội, nhân thân và tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đã đề nghị với Hội đồng xét xử: Tuyên bố các bị cáo Lò Văn K, Quàng Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự;

Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 (đối với B áp dụng thêm khoản 2 Điều 51) của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: bị cáo Lò Văn K từ 15 đến 18 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt 30/12/2020.

Xử phạt: bị cáo Quàng Văn B từ 12 đến 15 tháng tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đầu thú 31/12/2020.

- Về hình phạt bổ sung: Không áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo Lò Văn K, Quàng Văn B.

- Về xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự: Tịch thu tiêu hủy 0,18 gam ma túy, loại Heroine hoàn lại sau giám định; tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước 01 điện thoại di động nhãn hiệu Nokia, 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung.

Các bị cáo thừa nhận hành vi phạm tội và không tranh luận với lời luận tội của Đại diện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.

Lời nói sau cùng: Các bị cáo đều đề nghị Hội đồng xét xử, xem xét cho các bị cáo được hưởng mức án thấp nhất.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định của Cơ quan điều tra Công an thành phố Móng Cái, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về hành vi phạm tội: Tại phiên toà bị cáo Lò Văn K và Quàng Văn B đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng đã truy tố. Lời khai nhận tội của các bị cáo tại phiên toà phù hợp với lời khai của các bị cáo tại cơ quan điều tra; phù hợp với các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án như vật chứng đã thu giữ; kết luận giám định và phù hợp với lời khai của người chứng kiến. Như vậy, đã có đủ cơ sở kết luận vào khoảng 15 giờ 40 phút ngày 30/12/2020, Lò Văn K và Quàng Văn B đã có hành vi cất giữ trái phép 0,236 gam ma túy, loại Heroine với mục đích để sử dụng, thì bị bắt quả tang. Do đó, hành vi tàng trữ 0,236 gam ma túy, loại Heroine nhằm mục đích sử dụng cho bản thân của các bị cáo Lò Văn K và Quàng Văn B đã cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”. Tội phạm và hình phạt được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 249 của Bộ luật hình sự. Như vậy, Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái truy tố các bị cáo với tội danh và khung hình phạt trên là có căn cứ, đúng pháp luật.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội, đã trực tiếp xâm phạm đến chính sách độc quyền quản lý chất ma túy của Nhà nước đối với các chất ma tuý, là một trong những nguyên nhân làm phát sinh các tệ nạn xã hội khác, ảnh hưởng xấu đến tình hình trật tự trị an ở địa phương. Các bị cáo là người đã trưởng thành, có đủ năng lực hành vi nhận thức rõ tác hại của ma túy, để thỏa mãn nhu cầu riêng của bản thân các bị cáo đã cố ý thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội , vì vậy cần xử lý nghiêm , mới co tác dụng giáo dục các bị cáo và phục vụ công tác đấu tranh phòng , chống tội phạm , phòng ngưa chung.

[3] Về vai trò của các bị cáo trong vụ án: Tại phiên tòa hôm nay Đại điện Viện kiểm sát nhân dân thành phố Móng Cái đánh giá đây là vụ án đồng phạm giản đơn, bị cáo Lò Văn K và bị cáo Quàng Văn B có vai trò ngang nhau và đề nghị Hội đồng xét xử, xử phạt bị cáo Quàng Văn B từ 12 đến 15 tháng tù là chưa tương xứng với tính chất, hành vi phạm tội cũng như vai trò của các bị cáo trong vụ án. Hội đồng xét xử xét thấy, đây là vụ án đồng phạm giản đơn, do đều nghiện ma túy nên bị cáo Quàng Văn B đã khởi xướng, rủ rê lôi kéo và góp tiền mua ma túy nhiều hơn bị cáo K nên giữ vai trò chính trong vụ án và phải chịu mức hình phạt cao hơn so với bị cáo K; bị cáo Lò Văn K sau khi thấy bị cáo B khởi xướng đã đồng tình hưởng ứng ngay và trực tiếp là người đi mua ma túy về sử dụng do đó bị cáo phải chịu mức hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của mình nhưng thấp hơn bị cáo B.

[4] Về áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, hình phạt bổ sung:

- Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa các bị cáo đều thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải về hành vi phạm tội của mình nên các bị cáo được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật hình sự; bị cáo Quàng Văn B sau khi phạm tôi đã ra đầu thú nên bị cáo hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật hình sự để giảm nhẹ một phần hình phạt cho các bị cáo thể hiện sự khoan hồng của pháp luật.

- Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo đều không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên, bị cáo Lò Văn K phạm tội lần này đang trong thời gian chấp hành biện pháp giáo dục tại xã của Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Púng Tra, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La từ ngày 19/10/2020 đến ngày 19/01/2021 và chưa chấp hành xong quyết định xử phạt vi phạm hành chính của Công an xã Púng Tra, huyện Thuận Châu, tỉnh Sơn La với số tiền là 1.500.000 đồng. Do đó, tính đến ngày phạm tội chưa hết thời hạn được coi là chưa bị xử lý vi phạm hành chính.

- Về hình phạt bổ sung, theo quy định tại khoản 5 Điều 249 của Bộ luật hình sự, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền. Tuy nhiên, theo các tài liệu, chứng cứ và lời khai của các bị cáo tại phiên tòa đều cho thấy các bị cáo là đôi tương nghiện ma túy, không có nghề nghiệp và thu nhập ôn đinh . Vì vậy, Hội đồng xét xử quyết định không áp dụng hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo.

[5] Sau khi xem xét, đánh giá tính chất của vụ án, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, vai trò trong vụ án và khối lượng Heroine các bị cáo tàng trữ, Hội đồng xét xử xét thấy cần thiết ấn định mức hình phạt nghiêm trong khung đã truy tố đối với các bị cáo và cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để cải tạo, giáo dục các bị cáo và răn đe phòng ngừa tội phạm chung.

[6] Về vật chứng và xử lý vật chứng:

- Sau khi giám định, Phòng Kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Quảng Ninh hoàn lại Cơ quan CSĐT Công an thành phố Móng Cái là 0,18 gam ma túy, loại Heroine kèm theo kết luận giám định số: 206/KLGĐ ngày 04/01/2021 theo đúng quy định của pháp luật là vật Nhà nước cấm tàng trữ, lưu hành, do đó căn cứ vào điểm c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu, tiêu hủy.

- 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đỏ đen, bên trong lắp 01 (một) sim, máy đã qua sử dụng là tài sản của Lò Văn K và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng, bên trong lắp 01 (một) sim, máy đã qua sử dụng là tài sản của Quàng Văn B đây là công cụ, phương tiện các bị cáo sử dụng vào viêc pham tôi , do đó căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự và điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự cần tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước.

[7] Về nghĩa vụ chịu án phí hình sự sơ thẩm: Cần buộc bị cáo Quàng Văn B phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định. Đối với bị cáo Lò Văn K là người dân tộc thiểu số ở xã có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn thuộc khu vực III theo Quyết định số: 582/QĐ-TTg ngày 28/4/2017 của Thủ tướng Chính phủ nên bị cáo được miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm theo quy định.

[8] Về quyền kháng cáo : Các bi cao có quyền kháng cáo bản án theo quy đinh cua phap luât.

[9] Liên quan trong vụ án có đối tượng tên P đã bán ma túy cho bị cáo K, quá trình điều tra không xác định được lai lịch, địa chỉ nên không đủ cơ sở để điều tra, xử lý.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Các bị cáo Lò Văn K, Quàng Văn B phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”;

Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Lò Văn K 15 (mười lăm) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị bắt 30/12/2020.

Căn cứ vào: điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17; Điều 58 của Bộ luật hình sự.

Xử phạt: Bị cáo Quàng Văn B 18 (mười tám) tháng tù. Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày đầu thú 31/12/2020.

*. Về vật chứng và xử lý vật chứng:

Căn cứ vào: điểm a, c khoản 1 Điều 47 của Bộ luật hình sự; điểm a khoản 2 Điều 106 của Bộ luật Tố tụng hình sự:

- Tịch thu tiêu hủy: 0,18 gam ma túy, loại Heroine được niêm phong theo đúng quy định của pháp luật. Mặt trước phong bì ghi: “Mẫu vật hoàn lại kèm theo KLGĐ số 206/KLGĐ ngày 04/01/2021”;

- Tịch thu nộp vào ngân sách Nhà nước: 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Nokia màu đỏ đen, bên trong lắp 01 (một) sim, máy đã qua sử dụng và 01 (một) điện thoại di động nhãn hiệu Samsung màu vàng, bên trong lắp 01 (một) sim, máy đã qua sử dụng.

(Tình trạng số vật chứng trên theo biên bản giao nhận vật chứng số 78/2021/THA, ngày 16 tháng 4 năm 2021 giữa Chi cục Thi hành án dân sự thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh và Cơ quan CSĐT Công an thành phố Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh).

*. Về nghĩa vụ chịu án phí sơ thẩm: Căn cứ vào khoản 2 Điều 136 của Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a khoản 1 Điều 23 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/12016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Buộc bị cáo Quàng Văn B phải chịu 200.000 đồng (hai trăm nghìn đồng) tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Căn cứ vào: điểm đ khoản 1 Điều 12; của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/12016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án. Miễn nộp tiền án phí hình sự sơ thẩm cho bị cáo Lò Văn K.

*. Về quyền kháng cáo: Căn cứ vào khoản 1 Điều 331 và khoản 1 Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự. Các bị cáo có quyền kháng cáo bản án sơ thẩm trong thời hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

122
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2021/HS-ST ngày 02/06/2021 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:60/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Móng Cái - Quảng Ninh
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 02/06/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về