Bản án 60/2020/HNGĐ-ST ngày 31/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ PHÚ MỸ, TỈNH BÀ RỊA-VŨNG TÀU

BẢN ÁN 60/2020/HNGĐ-ST NGÀY 31/08/2020 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 31 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 260/2020/TLST-HNGĐ ngày 27 tháng 5 năm 2020 về việc “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 50/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 28 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 30/2020/QĐST-HNGĐ ngày 13 tháng 8 năm 2020 giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Hoàng Thị Thùy Tr, sinh năm 1994 (có mặt) Địa chỉ: Số N thôn X, xã Y, thị xã Z, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu.

2. Bị đơn: Ông Vương Văn B, sinh năm 1992 (vắng mặt) Địa chỉ: Tổ N2, khu M, thôn X, xã Y, thị xã Z, tỉnh Bà Rịa- Vũng Tàu.

NỘI DUNG VỤ ÁN

 * Theo đơn khởi kiện, bản tự khai và tại phiên tòa nguyên đơn bà Hoàng Thị Thùy Tr trình bày:

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Tr, ông B tự nguyện chung sống với nhau từ đầu năm 2016 và đã được Ủy ban nhân dân xã Y, thị xã Z, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu cấp giấy chứng nhận kết hôn.

Quá trình chung sống từ tháng 01-2016 đến tháng 8-2016 vợ chồng bà Tr sống với nhau hạnh phúc, sau đó mới phát sinh mâu thuẫn. Nguyên nhân là do ông B thường xuyên ăn nhậu, sử dụng ma túy, không tu chí làm ăn làm cho vợ chồng luôn bất hòa, không cùng quan điểm và cuộc sống chung không còn hạnh phúc.

Từ mâu thuẫn trên nên vào năm 2017 bà Tr đã làm đơn xin ly hôn với ông B tại Tòa án nhân dân huyện Tân Thành (nay là thị xã Phú Mỹ) nhưng trong quá trình hòa giải vợ chồng bà Tr đã đồng ý quay về đoàn tụ cùng nhau. Tuy nhiên kể từ thời điểm đó đến nay vợ chồng bà Tr vẫn không khắc phục được những mâu thuẫn trong cuộc sống và ông B cũng không sửa đổi những thói hư, tật xấu trước đây, do đó vợ chồng bà Tr đã sống ly thân từ tháng 6-2019.

Nay bà Tr xác định không còn tình cảm vợ chồng với ông B nên yêu cầu Tòa án giải quyết cho bà Tr được ly hôn với ông B - Về con chung: Bà Tr và ông B có 01 con chung tên Vương Trâm A, sinh ngày 11-7-2019. Tại đơn khởi kiện và trong quá trình tố tụng bà Tr yêu cầu được trực tiếp nuôi con chung đến tuổi trưởng thành và ông B có nghĩa vụ cấp dưỡng 3.000.000 đồng/tháng. Tuy nhiên tại phiên tòa bà Tr không còn yêu cầu ông B phải cấp dưỡng nuôi con.

- Về tài sản chung, nợ chung: Bà Tr không yêu cầu giải quyết

* Tại Biên bản lấy lời khai ngày 06-7-2020, bị đơn ông Vương Văn B trình bày:

 Ông B và bà Tr yêu thương nhau rồi đi đến kết hôn với nhau vào năm 2016, có đăng ký kết hôn tại xã Tân Hải. Trong quá trình chung sống giữa ông B và bà Tr đã nảy sinh mâu thuẫn, nguyên nhân là do bất đồng quan điểm, vợ chồng không tôn trọng nhau. Do mâu thuẫn ngày càng trầm trọng, kéo dài làm ông B buồn chán nên đã sử dụng rượu bia và cũng vì mâu thuẫn mà vợ chồng ông B đã sống ly thân từ tháng 7-2019 đến nay.

Nay trước yêu cầu xin ly hôn của bà Tr thì ông B cũng đồng ý ly hôn.

Về con chung: Ông B đồng ý giao con chung cho bà Tr được trực tiếp nuôi dưỡng và ông B không cấp dưỡng nuôi con chung.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Ý kiến phát biểu của Kiểm sát viên:

- Về tố tụng: Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ thụ lý và giải quyết vụ việc trên là đúng thẩm quyền. Trong quá trình giải quyết, Thẩm phán, Hội đồng xét xử, Thư ký Tòa án đã thực hiện các thủ tục tố tụng đúng quy định của pháp luật.

Về việc chấp hành pháp luật của những người tham gia tố tụng: Nguyên đơn đã chấp hành đầy đủ quyền, nghĩa vụ của mình quy định tại các Điều 70, 71 Bộ luật Tố tụng dân sự. Bị đơn vắng mặt, không thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ của mình quy định tại các Điều 70, 72 Bộ luật Tố tụng dân sự.

- Về nội dung: Căn cứ vào lời khai của các đương sự nhận thấy mâu thuẫn vợ chồng giữa bà Tr và ông B là có thật và không thể hàn gắn được. Do đó cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Tr, cho bà Tr được ly hôn với ông B.

Về con chung: Ghi nhận việc ông B giao con chung là cháu Vương Trâm Anh cho bà Tr trực tiếp nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành và ông B không phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

 [1] Về tố tụng:

[1.1] Về quan hệ tranh chấp, thẩm quyền giải quyết: Căn cứ theo nội dung đơn khởi kiện và các tài liệu, chứng cứ do nguyên đơn cung cấp, xác định vụ việc giải quyết trên thuộc loại quan hệ về “Ly hôn, tranh chấp nuôi con khi ly hôn” thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án. Tòa án nhân dân thị xã Phú Mỹ thụ lý, giải quyết là đúng thẩm quyền theo quy định tại các Điều 28, 35, 39 Bộ luật Tố tụng dân sự.

[1.2] Về việc vắng mặt của bị đơn: Đối với ông Vương Văn B đã được Tòa án tống đạt các văn bản tố tụng theo đúng quy định của pháp luật nhưng ông B vẫn vắng mặt tại phiên tòa. Do đó, căn cứ điểm b Khoản 2 Điều 227 Bộ luật Tố tụng dân sự Tòa án vẫn tiến hành xét xử vụ án theo quy định.

[2] Nội dung giải quyết:

[2.1] Về quan hệ hôn nhân: Bà Tr, ông B tự nguyện chung sống với nhau từ năm 2016 và đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp giấy chứng nhận kết hôn theo đúng quy định. Do đó, hôn nhân của bà Tr và ông B là hợp pháp.

Trong quá trình chung sống từ năm 2016 đến nay giữa vợ chồng bà Tr đã xảy ra nhiều mâu thuẫn. Nguyên nhân là do vợ chồng bất đồng quan điểm, không còn sự tôn trọng lẫn nhau và khi mâu thuẫn không được các bên giải quyết triệt để đã làm cho mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Theo xác nhận của các đương sự thì từ tháng 6-2019 bà Tr, ông B đã sống ly thân và nay ông B cũng đồng ý ly hôn với bà Tr.

Từ căn cứ trên, nhận thấy tình trạng hôn nhân giữa bà Tr, ông B đã đến mức trầm trọng và không thể hàn gắn được. Do đó, cần chấp nhận yêu cầu của bà Tr, cho bà Tr được ly hôn với ông B.

[2.2] Về con chung: Bà Tr có yêu cầu được nuôi con chung là cháu Vương Trâm A, sinh ngày 11-7-2019 cho đến tuổi trưởng thành và yêu cầu này của bà Tr đã được ông B đồng ý nên ghi nhận.

Đối với việc bà Tr không yêu cầu ông B phải cấp dưỡng nuôi con và đây là sự tự nguyện của bà Tr nên ghi nhận.

[2.3] Về tài sản chung, nợ chung: Bà Tr, ông B không yêu cầu nên không giải quyết.

[3] Về án phí: Bà Tr phải chịu 300.000 đồng.

[4] Về quyền kháng cáo: Bà Tr, ông B được quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ các Điều 56, 57, 81, 82, 83, 84 Luật Hôn nhân và gia đình; các Điều 28, 35, 39, 147, 227 và 273 Bộ luật Tố tụng dân sự.

1. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hoàng Thị Thùy Tr - Về quan hệ hôn nhân: Bà Hoàng Thị Thùy Tr được ly hôn với ông Vương Văn B.

- Về con chung: Giao cháu Vương Trâm A, sinh ngày 11-7-2019 cho bà Hoàng Thị Thùy Tr được quyền trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng cho đến khi trưởng thành (đủ 18 tuổi). Ông Vương Văn B không phải cấp dưỡng nuôi con.

Ông Vương Văn B có quyền thăm nom, chăm sóc con chung không ai được quyền cản trở. Vì lợi ích của con, khi cần thiết các bên có quyền yêu cầu thay đổi người trực tiếp nuôi con và yêu cầu việc cấp dưỡng nuôi con theo quy định.

- Về tài sản chung, nợ chung: Không giải quyết

2. Về án phí hôn nhân sơ thẩm: Bà Hoàng Thị Thùy Tr phải nộp 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng), nhưng được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án đã nộp theo Biên lai thu tiền số 0005414 ngày 26 tháng 5 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Phú Mỹ. Như vậy, bà Tr đã nộp đủ tiền án phí.

3. Nguyên đơn, bị đơn có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án (đối với đương sự vắng mặt thời hạn kháng cáo tính từ ngày nhận được bản sao bản án hoặc kể từ ngày bản án được niêm yết công khai).

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

185
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2020/HNGĐ-ST ngày 31/08/2020 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:60/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Phú Mỹ - Bà Rịa - Vũng Tàu
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 31/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về