Bản án 60/2020/HNGĐ-ST ngày 26/08/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN CHÂU THÀNH, TỈNH LONG AN

BẢN ÁN 60/2020/HNGĐ-ST NGÀY 26/08/2020 VỀ TRANH CHẤP LY HÔN, NUÔI CON CHUNG

Ngày 26 tháng 8 năm 2020, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Châu Thành, xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lý số 150/2020/TLST-HNGĐ ngày 24 tháng 6 năm 2020, về “tranh chấp ly hôn, nuôi con chung” theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 68/2020/QĐXXST-HNGĐ ngày 22 tháng 7 năm 2020 và Quyết định hoãn phiên tòa số 44/2020/QĐST-HNGĐ, ngày 10 tháng 8 năm 2020, giữa:

Nguyên đơn: Bà Trương Thị Thanh Th, sinh năm: 1988. Địa chỉ: Số nhà 590/5 ấp V, xã D, huyện C, tỉnh L.

Bị đơn: Ông Hồ Tuấn K, sinh năm: 1988. Địa chỉ: Số nhà 21A/4 ấp M, xã D, huyện C, tỉnh L.

(Nguyên đơn có mặt, bị đơn vắng mặt).

NỘI DUNG VỤ ÁN

Tại đơn khởi kiện đề ngày 11 tháng 6 năm 2020 và trong quá trình xét xử, bà Trương Thị Thanh Th là nguyên đơn trình bày: Bà và ông Hồ Tuấn K được tổ chức lễ cưới vào năm 2010, đến ngày 15/11/2010 có đăng ký kết hôn, tại Ủy ban nhân dân xã D, huyện C, tỉnh L.

Sau ngày cưới vợ chồng sống hòa thuận hạnh phúc được ba năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do cách sống của hai bên không phù hợp, cuộc sống hôn nhân thường xuyên mâu thuẫn, không thể hàn gắn được. Hai người không còn chung sống với nhau từ năm 2018 cho đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn, mục đích của hôn nhân không đạt được nên bà xin được ly hôn với ông Hồ Tuấn K.

Về con chung: Bà và ông K có với nhau hai người con chung tên Hồ Kim Ph, sinh ngày 09/6/2012 và Hồ Khánh V, sinh ngày 24/9/2014, hiện nay bà đang trực tiếp nuôi hai người con chung. Khi ly hôn bà yêu cầu được tiếp tục giữ nuôi hai người con chung, không yêu cầu ông K phải cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung và nợ chung: Không yêu cầu Toà án giải quyết.

Ông Hồ Tuấn K là bị đơn hiện đang có mặt tại địa phương, Tòa án nhiều lần tống đạt các thông báo phiên hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa cho mẹ của ông K là bà Nguyễn Thị Th, cam kết giao lại cho ông K nhưng ông K vắng mặt không lý do, do đó cần áp dụng các Điều 227 và 228 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, đưa vụ án ra xét xử vắng mặt ông Hồ Tuấn K.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Bà Bà Trương Thị Thanh Th xin ly hôn với ông Hồ Tuấn K, việc tranh chấp được quy định tại khoản 1 Điều 28, Điều 35 và Điều 39 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015, nên Tòa án nhân dân huyện Châu Thành thụ lý, giải quyết.

[2] Bà Trương Thị Thanh Th và ông Hồ Tuấn K được tổ chức lễ cưới vào năm 2010, có đăng ký kết hôn vào ngày 15/11/2010, tại Ủy ban nhân dân xã D, huyện C, tỉnh L, nên được pháp luật công nhận là hôn nhân hợp pháp.

[3] Theo bà Trương Thị Thanh Th sau ngày cưới vợ chồng sống hoà thuận hạnh phúc được ba năm thì phát sinh mâu thuẫn, nguyên nhân do vợ chồng tính tình không hợp, thường xuyên cải vã nhau. Hai người không còn chung sống với nhau từ năm 2018 cho đến nay. Nay tình cảm vợ chồng không còn nên bà Thanh Th xin ly hôn với ông K. Đối với ông Hồ Tuấn K hiện đang có mặt tại địa phương, Tòa án đã nhiều lần tống đạt trực tiếp các thông báo phiên hòa giải, quyết định đưa vụ án ra xét xử và quyết định hoãn phiên tòa cho mẹ ông K là bà Nguyễn Thị Th, cam kết giao lại cho ông K, nhưng ông K vẫn vắng mặt không lý do, đã thể hiện ý thức không hợp tác của ông K. Xét thấy giữa hai đương sự đã phát sinh mâu thuẫn, nhưng hai bên không có thiện chí hàn gắn lại, đã vi phạm nghiêm trọng quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng làm cho hôn nhân lâm vào tình trạng trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích hôn nhân không đạt được nên cần cho bà Trương Thị Thanh Th được ly hôn với ông Hồ Tuấn K, theo quy định tại Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014.

[4] Về con chung: Nguyên đơn khai trình hai đương sự có với nhau hai người con chung tên Hồ Kim Ph, sinh ngày 09/6/2012 và Hồ Khánh V, sinh ngày 24/9/2014, hiện nay bà Th đang trực tiếp nuôi hai người con chung. Khi ly hôn bà Th yêu cầu được tiếp tục giữ nuôi hai người con chung, không yêu cầu ông K phải cấp dưỡng nuôi con. Xét thấy để ổn định cuộc sống của con chung của hai đương sự và theo nguyện vọng của con chung của hai đương sự, khi ly hôn cần giao cho bà Th được tiếp tục giữ nuôi hai người con chung. Bà Th không yêu cầu ông Kiệt phải cấp dưỡng nuôi con nên không đặt ra. Ông K có quyền đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chung các đương sự được quyền xin thay đổi tình trạng nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

[5] Về tài sản chung và nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu Tòa án giải quyết, nên không xem xét.

[6] Về án phí: Bà Trương Thị Thanh Th phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân gia đình sơ thẩm, theo quy định tại Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ vào Điều 28, 35, 39, 227, 228, 271 và 273 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015.

Căn cứ vào Điều 56, 81, 82, 83 và 84 Luật hôn nhân và gia đình năm 2014.

Căn cứ vào Điều 27 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14, ngày 30 tháng 12 năm 2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội.

Tuyên xử:

1. Về hôn nhân: Cho bà Trương Thị Thanh Th được ly hôn với ông Hồ Tuấn K.

2. Về nuôi con chung: Khi ly hôn bà Trương Thị Thanh Th được tiếp tục giữ nuôi hai người con chung tên Hồ Kim Ph, sinh ngày 09/6/2012 và Hồ Khánh V, sinh ngày 24/9/2014, đến tuổi trưởng thành. Ông Hồ Tuấn K không phải cấp dưỡng nuôi con; được quyền đến thăm nom chăm sóc con chung không ai được quyền ngăn cản. Cha, mẹ không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con chung các đương sự được quyền xin thay đổi tình trạng nuôi con hoặc việc cấp dưỡng nuôi con.

3. Về án phí: Bà Trương Thị Thanh Th phải chịu 300.000 đồng án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm. Cho chuyển số tiền tạm ứng án phí bà Trương Thị Thanh Th đã nộp là 300.000 đồng sang khoản án phí phải thi hành, theo biên lai thu số 0000475 ngày 24 tháng 6 năm 2020 của Chi cục Thi hành án dân sự huyện Châu Thành.

4. Về quyền kháng cáo: Nguyên đơn có quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày, kể từ ngày tuyên án. Bị đơn được quyền kháng cáo trong hạn 15 ngày kể từ ngày Toà án tống đạt hợp lệ bản án, để yêu cầu Toà án nhân dân tỉnh Long An xét xử phúc thẩm.

Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 30 Luật thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

189
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2020/HNGĐ-ST ngày 26/08/2020 về tranh chấp ly hôn, nuôi con chung

Số hiệu:60/2020/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Châu Thành - Long An
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 26/08/2020
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về