Bản án 60/2019/HS-ST ngày 13/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ BẠC LIÊU, TỈNH BẠC LIÊU

BẢN ÁN 60/2019/HS-ST NGÀY 13/08/2019 VỀ TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

Ngày 13 tháng 8 năm 2019 tại Trụ sở Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số: 72/2019/TLST-HS ngày 04 tháng 7 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 67/2018/QĐXXST-HS ngày 30 tháng 7 năm 2019 đối với bị cáo:

Họ và tên: T V T, sinh năm 1988 tại Bạc Liêu. Nơi cư trú: số B, khóm C, phường N, thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu. Giới tính: Nam; Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm thuê; Trình độ học vấn: 5/12; Cha tên T V T, sinh năm 1969 và mẹ tên L T Q, sinh năm 1969; Vợ tên M LL, sinh năm 1992; có 02 con lớn nhất sinh năm 2014, nhỏ nhất sinh năm 2016; Anh, chị, em ruột: 03 người, lớn nhất bị can, nhỏ nhất sinh năm 1992; Tiền án, tiền sự: Không; Bị can T V T bị khởi tố bị can ngày 14/3/2018, bỏ trốn đến ngày 19/4/2019, bị bắt theo Quyết định truy nã và bị tạm giam cho đến nay. “có mặt”.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 22 giờ ngày 15/12/2017, LDP rủ TĐ đi uống cà phê, Đ đồng ý và điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius, biển kiểm soát 94M1-5741 của Th T Đ (em ruột Đ) đến chở Lê D P (khi đi P mang theo 1 cây cần câu bằng nhựa, dạng rút gồm 6 đoạn dài 245cm) rồi cùng nhau đến quán cà phê tại chân cầu Tôn Đức Thắng thuộc khóm A, phường P, thành phố Bạc Liêu. Đến khoảng 01 giờ, ngày 16/12/2017, thì thấy T V T điều khiển xe mô tô nhãn hiệu Yamaha, loại Sirius Fi, biển kiểm soát 83P3-069.78 chở H V P đi ngang nên Đang rủ vào cùng uống cà phê. Tại đây, L D P rủ Đ, P và T cùng nhau đi tìm tài sản lấy trộm thì tất cả đồng ý. Sau đó, H V P điều khiển xe mô tô 94N1-BBBBB chở Th Đ; T V T điều khiển xe mô tô 83P3-069.78 chở L D P về nhà H V P ở ấp G, xã H, thành phố Bạc Liêu lấy 2 cái giỏ xách và 01 cây kềm cộng lực (để ngụy trang như những người đi mua bán) rồi cùng nhau điều khiển xe đến khu vực khóm C, phường N, thành phố Bạc Liêu. Khi đến nhà của chị N T T N, trú tại số 418/5, thuộc C, phường N, thấy nhà không đóng cửa và có mở đèn sáng nên dừng xe lại cho T Đ và L D P xuống xe đi vào tìm tài sản lấy trộm, còn P và T ngồi trên xe canh đường. Khi vào bên trong nhà, L D P lấy trộm 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, loại Galaxy J3, màu vàng-đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Coolpad Sky mini E560, màu trắng của chị H T T (chị dâu của N T T N) rồi đi ra ngoài. Sau đó, T Đ đi vào lấy trộm 01 cái điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, loại Galaxy A5, màu đen-vàng-đồng của chị N T T N (đang sạc) thì bị anh V P K (chồng chị N) phát hiện truy hô, T Đ bỏ chạy ra ngoài thì bị anh K rượt theo bắt giữ và trình báo Công an phường N, thành phố Bạc Liêu đến lập biên bản bắt người phạm tội quả tang. Tang vật thu giữ gồm: 02 cái giỏ xách (loại dây gân) có quai màu xanh nâu, bên trong có 1 cây kiềm cộng lực bằng kim loại dài khoảng 50cm; 1 cây cần câu bằng nhựa dạng rút gồm 6 đoạn dài 245cm; 1 nón bảo hiểm màu đen và 1 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, loại Galaxy A5. Kiểm tra trên người Thạch Đang tạm giữ số tiền 900.000 đồng. Còn L D P lên xe T V T và H V P chạy thoát. Đến khoảng 5 giờ, cùng ngày 16/12/2017, H V P điều khiển xe mô tô 94N1-5741 đến trả cho T T G(vợ T Đ), sau đó chị G mang xe mô tô 94N1-5741 đến Cơ quan điều tra giao nộp.

Tại Bản kết luận định giá tài sản số 158, ngày 19/12/2017, của Hội đồng định giá tài sản trong tố tụng hình sự xác định: 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, loại Galaxy A5, màu đen-vàng-đồng, có giá trị là 4.413.500 đồng; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, loại Galaxy J3, màu vàng-đồng, có giá trị là 2.593.500 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Coolpad Sky mini E560, màu trắng, có giá trị là 1.943.500 đồng. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 8.950.500 đồng.

Tại bản Cáo trạng số 71/CT-VKSTPBL ngày 02 tháng 7 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu truy tố bị cáo T V T về tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tại phiên tòa:

- Kiểm sát viên giữ quyền công tố vẫn giữ nguyên quan điểm như Cáo trạng đã truy tố đối với bị cáo T V T và đề nghị Hội đồng xét xử:

Tuyên bố bị cáo T V T phạm tội “Trộm cắp tài sản”.

Áp dụng khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009: Đề nghị xử phạt bị cáo T V T từ 06 tháng đến 09 tháng tù.

Án phí: p dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự; Điều 23, Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Bị cáo T phải chịu án phí theo quy định.

Đối với T Đ, H V P, L D P, vật chứng của vụ án, trách nhiệm dân sự và các vấn đề khác đã được Cơ quan điều tra; Bản án số: 50/2018/HSST, ngày 21/6/2018 và Bản án số: 100/2018/HSST, ngày 25/10/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu giải quyết toàn diện nên không đề cập ở vụ án này.

- Bị cáo đã thành khẩn khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

[1] Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thành phố Bạc Liêu, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung vụ án: Lời khai nhận tội của bị cáo tại phiên tòa hoàn toàn phù hợp với lời khai của chính bị cáo trong giai đoạn điều tra; lời khai của bị cáo phù hợp lời khai của T Đ, H V P, L D P, người làm chứng và người bị hại về thời gian, địa điểm, đặc điểm tài sản, cách thức chiếm đoạt tài sản; đồng thời phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác đã được thu thập trong quá trình điều tra, truy tố và đã được thẩm tra làm r tại phiên tòa.

Do đó, đủ căn cứ chứng minh: Khoảng 02 giờ, ngày 16/12/2017, tại khóm C, phường N, thành phố Bạc Liêu, T V T cùng T Đ, L D P, H V P đã lén lút lấy trộm 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, loại Galaxy A5, màu đen-vàng-đồng có giá trị 4.413.500 đồng của chị N T T N; 01 điện thoại di động nhãn hiệu Samsung, loại Galaxy J3, màu vàng-đồng, có giá trị là 2.593.500 đồng và 01 điện thoại di động nhãn hiệu Coolpad Sky mini E560, màu trắng, có giá trị là 1.943.500 đồng của chị H T T. Tổng giá trị tài sản chiếm đoạt là 8.950.500 đồng.

Trước, trong và sau khi thực hiện hành vi phạm tội bị cáo có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Hành vi nêu trên của bị cáo T V T đã đủ yếu tố cấu thành tội “Trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009. Vì vậy, Viện kiểm sát nhân dân thành phố Bạc Liêu truy tố bị cáo về tội danh và điều luật nêu trên là đúng người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật.

[3] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: không [4] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên áp dụng quy định tại điểm h, p Khoản 1 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009 để giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị cáo.

[5] Đối với T Đ, H V P, L D P, vật chứng của vụ án, trách nhiệm dân sự và các vấn đề khác đã được giải quyết xong tại Bản án số 50/2018/HSST ngày 21/6/2018 và Bản án số 100/2018/HSST ngày 25/10/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Bạc Liêu, tỉnh Bạc Liêu.

[6] Về án phí: Bị cáo phải nộp án phí hình sự theo quy định pháp luật.

[7] Xét đề nghị của đại diện Viện kiểm sát nhân thành phố Bạc Liêu về tội danh, hình phạt và các nội dung khác đối với bị cáo là phù hợp, được Hội đồng xét xử chấp nhận.

[8] Bị cáo có quyền kháng cáo bản án theo quy định pháp luật.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

1. Căn cứ khoản 1 Điều 138; điểm h, p khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999, được sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Tuyên bố bị cáo T V T phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Xử phạt bị cáo T V T 06 (sáu) tháng tù.

Thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bị cáo bị tạm giữ là ngày 19/4/2019.

2. Về án phí: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015; điểm a Khoản 1 Điều 23 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về án phí và lệ phí Tòa án: Buộc bị cáo T V T phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

3. Về quyền kháng cáo: n xử công khai, bị cáo T V T có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

235
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2019/HS-ST ngày 13/08/2019 về tội trộm cắp tài sản

Số hiệu:60/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Bạc Liêu - Bạc Liêu
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 13/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về