Bản án 60/2019/HS-ST ngày 07/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ DĨ AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 60/2019/HS-ST NGÀY 07/03/2019 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 07 tháng 3 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số: 19/2019/TLST-HS ngày 23 tháng 01 năm 2019 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 60/2019/QĐXXST-HS ngày 21 tháng 02 năm 2018 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn B, sinh năm 1993 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: Lý Thường K, phường D, thị xã D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Không; trình độ học vấn: 04/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1965 và bà Huỳnh Thị M, sinh năm 1967; có 01 em ruột, sinh năm 2005; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 18/10/2018, có mặt tại phiên tòa.

2. Trần Trường G (tên gọi khác T), sinh năm 1987 tại tỉnh Bình Dương; thường trú: Nguyễn Thị Minh K, phường T, thị xã D, tỉnh Bình Dương; nghề nghiệp: Lái xe; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Trần Văn V, sinh năm 1959 và bà Dương Thị Kim T, sinh năm 1963; có 01 chị ruột, sinh năm 1985; có vợ tên Văn Thiên K, sinh năm 1993; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 18/10/2018, có mặt tại phiên tòa.

3. Nguyễn Trung K, sinh năm 1985 tại Tp. Hà Nội; thường trú: Thôn T, thị trấn P, huyện P, thành phố Hà Nội; nghề nghiệp: Công nhân; trình độ học vấn: 12/12; dân tộc: Kinh; tôn giáo: Không; con ông Nguyễn Mạnh C, sinh năm 1960 và bà Nguyễn Thị H, sinh năm 1961; có 01 em ruột, sinh năm 1989; có vợ tên Nguyễn Thanh L, sinh năm 1993 và 01 con sinh năm 2018; tiền án, tiền sự: Không; bị bắt tạm giam từ ngày 18/10/2018, có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Qua các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và quá trình xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Khoảng 21 giờ, ngày 17/10/2018 tại tiệm Internet HTC thuộc khu phố Thắng Lợi 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương. Nguyễn Văn B, Trần Trường G và Nguyễn Trung K rủ nhau hùn tiền mỗi người 100.000 đồng để mua ma túy đá về sử dụng. B cầm tiền 300.000 đồng đi gặp không rõ lai lịch ở khu vực nhà hàng Khánh Hưng thuộc khu phố Thắng Lợi 2, phường Dĩ An mua một 01 gói ma túy đem về nhà Bình tại khu phố Thắng Lợi 1, phường Dĩ An, thị xã Dĩ An, cất vào trong 01 chiếc hộp nhựa màu trắng để trên giường. Đến khoảng 13 giờ ngày 18/10/2018 K, G đến nhà B, B lấy gói ma túy ra và nói ma túy 03 người hùn tiền mua và lấy một ít vào bộ sử dụng ma túy cả 03 người sử dụng, số ma túy còn lại B cất vào trong cái hộp. Trong lúc B, K và G đang ngồi chơi thì Công an phường Dĩ An đến kiểm tra phát hiện 01 bộ sử dụng ma túy nên yêu cầu giao nộp ma túy, B tự nguyện lấy 02 gói ma túy trong chiếc hộp nhựa giao nộp, B khai 01 gói ma túy kích thước 1x3 cm là của B mua trước đó và đã sử dụng nhiều lần (Công an niêm phong kí hiệu là M2), 01 gói ma túy kích thước 1,5x2,5 cm là do B, K và G hùn tiền với nhau mua để sử dụng (Công an niêm phong ký hiệu là M1).

Căn cứ theo kết luận giám định số 633/MT-PC54 ngày 22/10/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận mẫu tinh thể màu trắng có trong 01 gói ma túy gửi giám định (ký hiệu M1) có khối lượng 0,2003 gam là loại chất Methamphetamine. Mẫu tinh thể màu trắng có trong 01 gói ma túy gửi giám định (ký hiệu M2) có khối lượng 0,0191 gam là loại chất Methamphetamine.

Tại cáo trạng số 47/CT–VKS ngày 22 tháng 01 năm 2019, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương truy tố các bị cáo Nguyễn Văn B, Trần Trường G và Nguyễn Trung K về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Tại phiên tòa, trong phần tranh luận đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 để xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B mức án từ 01 năm 06 tháng đến 02 năm tù; bị cáo Trần Trường G mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù; bị cáo Nguyễn Trung K mức án từ 01 năm đến 01 năm 06 tháng tù.

Đối với người đàn ông tên T bán ma túy cho B, do chưa rõ nhân thân, lai lịch nên tiếp tục điều tra xác minh khi nào có đủ cơ sở sẽ xử lý sau.

Về xử lý vật chứng: Đề nghị Hội đồng xét xử tịch thu tiêu hủy: 01 bì thư đã niêm phong bên trong có khối lượng ma túy sau giám định M1 là 0,1548 loại chất Methamphetamine và 01 bộ sử dụng ma túy.

Tại phiên tòa, trong phần thực hiện nói lời sau cùng: Các bị cáo xin Hội đồng xét xử giảm nhẹ hình phạt cho các bị cáo.

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra, xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận thấy như sau:

[1] Về tố tụng: Hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Dĩ An, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hay khiếu nại gì về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện đều hợp pháp.

[2] Về nội dung: Khoảng 13 giờ ngày 18/10/2018 K, G đến nhà B thì B lấy gói ma túy ra và nói ma túy 03 người hùn tiền mua và lấy một ít để vào bộ sử dụng ma túy và cả 03 người sử dụng còn lại B cất vào trong cái hộp. Công an phường Dĩ An đến kiểm tra phát hiện 01 bộ sử dụng ma túy nên B tự nguyện lấy 02 gói ma túy trong chiếc hộp nhựa giao nộp, Bình khai 01 gói ma túy kích thước 1x3 cm là của B mua trước đó, đã sử dụng nhiều lần (kí hiệu là M2), 01 gói ma túy kích thước 1,5x2,5 cm là do B, K và G hùn tiền mua để sử dụng (kí hiệu là M1).

Căn cứ theo kết luận giám định số 633/MT-PC54 ngày 22/10/2108 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương, kết luận mẫu tinh thể màu trắng có trong 01 gói ma túy gửi giám định (ký hiệu M1) có khối lượng 0,2003 gam là loại chất Methamphetamine. Mẫu tinh thể màu trắng có trong 01 gói ma túy gửi giám định (ký hiệu M2) có khối lượng 0,0191gam là loại chất Methamphetamine.

Theo quy định tại Điều 249 Bộ luật Hình sự:

1. Người nào tàng trữ trái phép chất ma túy mà không nhằm mục đích mua bán, vận chuyển, sản xuất trái phép chất ma túy thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: ”.......

c) Heroin, Cocaine, Methemphetamine, Amphetamine, MDMA hoặc XLR-11 có khối lượng từ 0,1 gam đến dưới 05 gam; “.......

Hành vi của các bị cáo Nguyễn Văn B, Trần Trường G và Nguyễn Trung K thực hiện đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017. Cáo trạng số 47/CT–VKS ngày 22 tháng 01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Dĩ An, tỉnh Bình Dương và luận tội của Kiểm sát viên đề nghị đối với các bị cáo là có căn cứ đúng người, đúng tội và đúng pháp luật.

[3] Tính chất, mức độ của hành vi: Tội phạm do các bị cáo thực hiện là nghiêm trọng đã trực tiếp xâm phạm đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước về chất ma túy, gây mất trật tự trị an tại địa phương. Vì vậy, cần xử phạt các bị cáo với mức án tù tương xứng với tính chất mức độ tội phạm đã thực hiện, có xét đến vai trò của các bị cáo, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, nhân thân của các bị cáo, đủ để giáo dục, cải tạo và có tác dụng đấu tranh, phòng ngừa chung.

[4] Tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Các bị cáo không có.

[5] Tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Tại cơ quan điều tra cũng như tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo; ăn năn hối cải, là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự.

[6] Về nhân thân: Các bị cáo là đối tượng nghiện ma túy.

[7] Xử lý vật chứng: Xét 01 (một) bì thư đã niêm phong số: 633/PC09 bên trong chứa tinh thể màu trắng là loại chất Methamphetamine, khối lượng/trọng lượng: 0,2003 gam, mẫu vật hoàn lại sau giám định 0,1548 gam và 01 bộ sử dụng ma túy, cần tịch thu tiêu hủy.

[8] Mức hình phạt như đề nghị của đại diện Viện kiểm sát đề nghị là phù hợp nên chấp nhận.

[9] Đối với người đàn ông tên T bán ma túy cho B, do chưa rõ nhân thân, lai lịch nên tiếp tục điều tra xác minh khi nào có đủ cơ sở sẽ xử lý sau.

[10] Án phí hình sự sơ thẩm: Các bị cáo phải nộp theo quy định tại khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố các bị cáo Nguyễn Văn B, Trần Trường G và Nguyễn Trung K phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, được sửa đổi bổ sung năm 2017.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn B 01 (một) năm 06 (sáu) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/10/2018.

Xử phạt bị cáo Trần Trường G 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/10/2018.

Xử phạt bị cáo Nguyễn Trung K 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù, thời hạn tù tính từ ngày 18/10/2018.

2. Xử lý vật chứng: Áp dụng điểm a, khoản 1 Điều 47 Bộ luật Hình sự năm 2015; điểm a, khoản 2 Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Tịch thu tiêu hủy 01 bì thư đã niêm phong bên trong có khối lượng ma túy sau giám định M1 là 0,1548 gam, loại chất Methamphetamine và 01 bộ sử dụng ma túy.

(Biên bản giao nhận vật chứng ngày 22/01/2019, bút lục 165).

3. Án phí hình sự sơ thẩm: Áp dụng khoản 2 Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự; điểm a, khoản 1 Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.

Các bị cáo Nguyễn Văn B, Trần Trường G và Nguyễn Trung K, mỗi bị cáo phải nộp 200.000 đồng án phí hình sự sơ thẩm.

Các bị cáo được quyền kháng cáo trong hạn 15 (mười lăm) ngày, kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

174
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2019/HS-ST ngày 07/03/2019 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:60/2019/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Dĩ An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 07/03/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về