Bản án 60/2019/HNGĐ-ST ngày 22/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ THUẬN AN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 60/2019/HNGĐ-ST NGÀY 22/08/2019 VỀ LY HÔN, TRANH CHẤP NUÔI CON

Ngày 22 tháng 8 năm 2019 tại trụ sở Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương xét xử công khai vụ án thụ lý số: 546/2019/TLST-HNGĐ ngày 07 tháng 5 năm 2019 về “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”, theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 53/2019/QĐXXST-HNGĐ ngày 19 tháng 7 năm 2019, giữa các đương sự:

1. Nguyên đơn: Bà Phạm Thị Kim O, sinh năm 1986; thường trú tại: Ấp Lo Co A, xã A, huyện L, tỉnh Trà Vinh; nơi tạm trú: Số 1/45, tổ 2, khu phố L, phường G, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, có đơn yêu cầu giải quyết vắng mặt.

2. Bị đơn: Ông Nguyễn Hiển T, sinh năm 1985; thường trú tại: Ấp T, xã P, huyện L, tỉnh Trà Vinh; nơi tạm trú: Số 1/45, tổ 2, khu phố L, phường G, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

* Tại đơn khởi kiện đề ngày 20 tháng 3 năm 2019 và trong quá trình tố tụng, nguyên đơn – bà Phạm Thị Kim O trình bày:

Bà O và ông Nguyễn Hiển T chung sống vợ chồng với nhau từ năm 2013, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện L, tỉnh Trà Vinh và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 48/2013 ngày 04/5/2013.

Về con chung: Có 01 người con chung tên Nguyễn Gia H, sinh ngày 27/9/2014.

Quá trình chung sống vợ chồng hạnh phúc nhưng đến năm 2014 thì phát sinh mâu thuẫn, do bất đồng quan điểm sống. Vợ chồng sống riêng từ đầu năm 2019 cho đến nay, mạnh ai nấy sống, không ai quan tâm đến ai.

Nhận thấy tình cảm vợ chồng không còn, không có khả năng hàn gắn nên bà O khởi kiện yêu cầu như sau:

Về quan hệ hôn nhân: Yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Hiển T Về con chung: Sau khi ly hôn bà O yêu cầu được chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con chung tên Nguyễn Gia H, sinh ngày 27/9/2013 cho đến khi con chung đủ 18 tuổi. Bà O không yêu cầu cấp dưỡng nuôi con.

Về tài sản chung, nợ chung: Không yêu cầu Tòa án giải quyết.

Quá trình tố tụng bị đơn đều vắng mặt và không nộp cho Tòa án văn bản trình bày ý kiến của mình về yều cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Tại phiên tòa, nguyên đơn có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn vắng mặt lần hai đối với việc xét xử.

Vị đại diện Viện Kiểm sát tham gia phiên tòa phát biểu ý kiến:

Về việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử và Thư ký Tòa án: Thẩm phán được phân công thụ lý, giải quyết vụ án đã thực hiện đúng, đầy đủ các quy định tại Điều 203 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử, Thư ký phiên tòa đã tuân thủ đúng các quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự về xét xử sơ thẩm.

Về việc chấp hành pháp luật của người tham gia tố tụng: Từ khi thụ lý vụ án đến phiên tòa sơ thẩm, nguyên đơn đã thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ tố tụng theo quy định của Bộ luật Tố tụng Dân sự. Bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ hai đối với việc xét xử nhưng vắng mặt không rõ lý do, không đến tham gia phiên tòa xem như từ bỏ quyền và nghĩa vụ chứng minh của mình.

Về việc giải quyết vụ án: Căn cứ vào các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án đã được thẩm tra tại phiên tòa và kết quả tranh tụng tại phiên tòa, đại diện Viện Kiểm sát đề nghị Hội đồng xét xử như sau: Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” của nguyên đơn Những yêu cầu, kiến nghị để khắc phục vi phạm về tố tụng: Không có.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về quan hệ pháp luật: Bà Phạm Thị Kim O khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết ly hôn với ông Nguyễn Hiển T và yêu cầu được nuôi con chung nên Hội đồng xét xử xác định quan hệ pháp luật trong vụ án là “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con” theo khoản 1 Điều 28 của Bộ luật Tố tụng Dân sự.

[2] Về thẩm quyền giải quyết: Bị đơn – ông Nguyễn Hiển T có nơi cư trú tại khu phố Hòa Lân 2, phường Thuận Giao, thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương vì vậy theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 35 và điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng Dân sự thì Tòa án nhân dân thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương là Tòa án có thẩm quyền giải quyết.

[3] Về việc xét xử vắng mặt: Nguyên đơn- bà Phạm Thị Kim O có đơn yêu cầu xét xử vắng mặt. Bị đơn – ông Nguyễn Hiển T đã được Tòa án triệu tập hợp lệ lần thứ 2 để tham gia phiên tòa nhưng vắng mặt không rõ lý do. Do vậy, Hội đồng xét xử tiến hành xét xử vắng mặt nguyên đơn bị đơn theo quy định tại Điều 227, 228 của Bộ luật Tố tụng Dân sự

[4] Về nội dung: Quan hệ hôn nhân giữa bà Phạm Thị Kim O và ông Nguyễn Hiển T được xác lập trên cơ sở tự nguyện vào năm 2013, có đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân xã M, huyện L, tỉnh Trà Vinh và đã được cấp giấy chứng nhận kết hôn số 48/2013, ngày 04/5/2013 nên là hôn nhân hợp pháp.

Bà Phạm Thị Kim O khởi kiện yêu cầu được ly hôn với ông Nguyễn Hiển T với lý do: Vợ chồng bất đồng quan điểm sống nên mâu thuẫn ngày càng trầm trọng. Vợ chồng đã sống riêng nhau từ đầu năm 2019 cho đến nay, mỗi người có cuộc sống riêng không ai quan tâm đến ai.

Quá trình tố tụng Tòa án tiến hành xác minh tình trạng hôn nhân của vợ chồng bà O và ông T tại nơi cư trú của vợ chồng nhưng không ai có thông tin gì về việc vợ chồng bà O và ông T mâu thuẫn. Xét thấy, quan hệ hôn nhân tồn tại bền vững dựa trên tình cảm của vợ chồng, sống có trách nhiệm, thương yêu, chăm sóc, quan tâm lẫn nhau. Vợ chồng bà O và ông T vì bất đồng quan điểm sống nên tình cảm vợ chồng phai nhạt. Vợ chồng đã sống riêng nhau nhiều năm liền, không ai quan tâm đến ai, mạnh ai nấy sống nên xác định tình trạng hôn nhân của vợ chồng bà O và ông T không đạt được các yếu tố của một gia đình hạnh phúc. Do tình trạng hôn nhân của bà O và ông T đã trầm trọng, đời sống chung không thể kéo dài, mục đích của hôn nhân không đạt được phù hợp với quy định tại Khoản 1 Điều 56 Luật Hôn nhân và gia đình nên Hội đồng xét xử xét thấy có căn cứ chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà O về việc ly hôn với ông T.

Về con chung: Sau khi ly hôn, bà O yêu cầu được nuôi con chung là cháu Nguyễn Gia H, sinh ngày 27/9/2014 và không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con.

t thấy: Từ khi vợ chồng sống riêng, cháu Hào sống cùng với bà O. Bà O chăm sóc con tốt nên cháu H phát triển bình thường, khỏe mạnh và học hành đầy đủ. Bà O là công nhân Công ty SV Probe Việt Nam, với mức lương hàng tháng thực nhận là 11.778.212 đồng nên xác định là nghề nghiệp ổn định, có thu nhập nên việc giao con chung cho bà O tiếp tục nuôi dưỡng là phù hợp pháp luật, phù hợp với nguyện vọng của bé, đảm bảo quyền lợi mọi mặt của con.

Về cấp dưỡng: Bà O tự nguyện không yêu cầu ông T cấp dưỡng nuôi con nên ghi nhận.

Về tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

Ý kiến của vị đại diện Viện kiểm sát nhân dân thị xã Thuận An tại phiên tòa là có căn cứ và phù hợp

[6] Về án phí: Nguyên đơn phải chịu án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm theo quy định của pháp luật.

Vì các lẽ trên;

QUYẾT ĐỊNH

Áp dụng:

- Khoản 1 Điều 28, Điểm a Khoản 1 Điều 35, Điểm a Khoản 1 Điều 39, Khoản 4 Điều 147, Khoản 3 Điều 228, Điều 266 của Bộ luật Tố tụng Dân sự năm 2015

- Các Điều 51, 56, 57, 58, 81, 82, 83 của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014.

- Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30-12-2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí tòa án.

1. Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của Phạm Thị Kim O đối với ông Nguyễn Hiển T về việc “Ly hôn, tranh chấp về nuôi con”.

- Về quan hệ hôn nhân: Bà Phạm Thị Kim O được ly hôn với ông Nguyễn Hiển T.

- Về con chung: Giao con chung tên Nguyễn Gia H, sinh ngày 27/9/2014, cho bà O trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục cho đến khi cháu H đủ 18 tuổi.

- Về cấp dưỡng: Ghi nhận sự tự nguyện của bà Phạm Thị Kim O không yêu cầu ông Nguyễn Hiển T cấp dưỡng nuôi con.

Sau khi ly hôn, người không trực tiếp nuôi con có quyền và nghĩa vụ thăm nom con mà không ai được cản trở. Người không trực tiếp nuôi con lạm dụng việc thăm nom để cản trở hoặc gây ảnh hưởng xấu đến việc trông nom, chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con thì người trực tiếp nuôi con có quyền yêu cầu Tòa án hạn chế quyền thăm nom con của người đó. Vì lợi ích của con, theo yêu cầu của một hoặc cả hai bên, Tòa án có thể thay đổi người trực tiếp nuôi con hoặc mức cấp dưỡng nuôi con.

- Tài sản chung, nợ chung: Nguyên đơn không yêu cầu nên Hội đồng xét xử không xem xét.

2. Về án phí hôn nhân và gia đình sơ thẩm: Nguyên đơn phải chịu 300.000 đồng (ba trăm nghìn đồng) được khấu trừ vào số tiền tạm ứng án phí đã nộp theo biên lai thu tiền số AA/2016/0035157 ngày 06/5/2019 của Chi cục Thi hành án dân sự thị xã Thuận An, tỉnh Bình Dương.

Nguyên đơn, bị đơn vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết.

Trường hợp bản án được thi hành theo quy định tại Điều 2 Luật Thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các Điều 6, 7 và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện tại Điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

176
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2019/HNGĐ-ST ngày 22/08/2019 về ly hôn, tranh chấp nuôi con

Số hiệu:60/2019/HNGĐ-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thành phố Thuận An - Bình Dương
Lĩnh vực:Hôn Nhân Gia Đình
Ngày ban hành: 22/08/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về