Bản án 60/2019/DS-PT ngày 20/09/2019 về tranh chấp quyền sử dụng đất

TÒA ÁN NHÂN DÂN TỈNH PHÚ THỌ

BẢN ÁN 60/2019/DS-PT NGÀY 20/09/2019 VỀ TRANH CHẤP QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Ngày 20 tháng 9 năm 2019, tại trụ sở Tòa án nhân dân tỉnh Phú Thọ tiến hành xét xử Phúc thẩm công khai vụ án thụ lý số: 42/2018/TLPT-DS ngày 17 tháng 7 năm 2019 về việc “Tranh chấp về quyền sử dụng đất”.

Theo quyết định đưa vụ án ra xét xử phúc thẩm số: 64/2019/QĐXXPT-DS ngày 09 tháng 8 năm 2019 giữa các đương sự:

1 - Nguyên đơn: Bà Trần Thị Q - sinh năm 1957.

Trú tại: Khu 4, xã X – Huyện Thanh B – Phú Thọ. (Có mặt).

2 - Bị đơn: Anh Trần Ngọc H sinh năm 1980 .

Trú tại: Khu 4, xã X - Thanh B - Phú Thọ. (Có mặt).

3 - Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan:

3.1- Chị Vi Thị T, sinh năm 1979 (Đề nghị vắng mặt).

Trú tại: Khu 5 Xã K, thị xã Phú Thọ, tỉnh Phú Thọ.

3.2 - Vi Thị L, sinh năm 1981 (Đề nghị vắng mặt).

Trú tại Khu 11 xã N, huyện T, tỉnh Phú Thọ.

3. 3 - Vi Thị P, sinh năm 1983 (Đề nghị vắng mặt).

Trú tại: Khu 10, xã K, huyện Thanh B, tỉnh Phú Thọ.

3.4 - Vi Thị L, sinh năm 1985.(Đề nghị vắng mặt).  

Trú tại: Khu 4, xã K, huyện Thanh B, tỉnh Phú Thọ

3.5 - Chị Trần Thị H sinh năm 1983 ( Ủy quyền cho cholà anh H).

Trú tại: Khu 4, xã X, huyện Z Thanh B, tỉnh Phú Thọ.

4 - Người kháng cáo: Anh Trần Ngọc H – bị đơn.

5 - Viện Kiểm sát kháng nghị: Vin trưởng VKSND huyện Thanh B.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguyên đơn bà Trần Thị Q trình bày: Gia đình bà có mảnh đất ở và đất vườn là 720m2 tại thửa đất số 266 tờ bản đồ số 30 thuộc đội 4 xã Khải Xuõn – huyện Thanh B đó được cấp GCNQSĐ 12/1998. Ngoài ra bà cũn xã giao canh tác diện tích đất trồng rừng từ năm 1976, nhưng chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Cuối năm 2010 bà chuyển nhượng cho anh Trần Ngọc H 1 mảnh đất giáp danh với hộ ông Phan Đăng Lựu diện tích 205,7m2 (Trong đó có 113m2 đt ở và 92,7m2 đất vườn), xác định mốc giới mặt đường rộng 10m, chiều rộng phía sau 10m, chiều sâu 20,57m, việc mua bán chuyển nhượng đều có các văn bản tháoa thuận, năm 2010 anh H đó được cấp GCNQSĐ. Sau đó hộ anh H làm nhà có lấn đất của gia đình bà và xõy rào chắn để cho dũng nước chảy sang đất thổ cư của bà. Bà đó đề nghị chính quyền địa phương giải quyết nhiều lần nhưng không dứt điểm. Nay bà yêu cầu anh H phải trả lại diện tích đất thừa và tháo dỡ hàng rào xây chắn trên đất của bà. Phũng Tài nguyờn Mụi trường HuyệnThanh B đó thực địa kiểm tra diện tích đất hiện nay của hộ anh H và gia đình bà đang sử dụng, đó được hội đồng định giá tài sản của huyện Thanh B quyết định về giá đất đang tranh chấp hiện nay.

+Bị đơn anh Trần Ngọc H: Năm 2010 anh có mua 1 phần đất của bà Q với diện tích 205,7m2 vic mua bán này đều có bản hợp đồng mua bán giữa hai bên (mặt đường 10m chiều sâu là 30m) và đó được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ ngày 22/10/2010. Gia đình anh làm nhà, xây tường rào sử dụng từ năm 2014 đến nay, việc bà Q cho rằng anh lấn đất là không đúng. Anh đề nghị giải quyết như sơ đồ bàn giao đất cho anh.

+Những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan: Chị Vi Thị Bích T, chị Vi Thị L, chị Vi Thị Phương và chị Vi Thị Liên trình bày: Năm 2010 mẹ các chị có bán cho anh H diện tích đất 205.7m2 anh H đó xõy nhà lấn đất của mẹ các chị, các chị đề nghị Tòa án căn cứ pháp luật để giải quyết, cũn về nội dung tranh chấp của mẹ cỏc chị là do mẹ cỏc chị quyết định, các chị đề nghị giải quyết vắng mặt.

+Tại bản án sơ thẩm số 05/2019/DSST ngày 13/06/2019 TAND huyện Thanh B đó ỏp dụng:Khoản 1 Điều 203 Luật đất đai năm 2013; Điều 145, 147, 149 Bộ luật tố tụng dân sự; Điểm b khoản 1 Điều 24, khoản 2 Điều 26, điểm b khoản 2 Điều 27 Pháp lệnh án phí, lệ phí Tòa án. Xử: Chấp nhận đơn yêu cầu của bà Trần Thị Q. Buộc anh Trần Ngọc H phải tháo dỡ toàn bộ phần tường rào xây trả lại cho bà Trần Thị Q diện tích đất 166,6m2. Ngoài ra bản án cũn tính án phí, tuyên quyền, nghĩa vụ khi thi hành án, quyền kháng cáo theo luật định.

+ Ngày 21/6/2019 anh H kháng cáo với cỏc nội dụng: Gia đình anh đó sử dụng từ năm 2010 đến 2018 không có tranh chấp, có chiều dài 30m từ phía sau bờ tam cấp đến mép đường giao thông. Nay chiều rộng mặt đường nhà anh bị thiếu chỉ cũn 9 m. Việc mua bán phần diện tích đất bên ngoài Giấy chứng nhận do 2 bên tháoa thuận mà Tòa sơ thẩm lại buộc anh trả lại đất cho bà Q là khụng đúng. Đề nghị áp dụng tỡnh tiết điểm e khoản 2 Điều 174 là “dựng thủ đoạn sảo quyệt” trong Bộ luật hình sự đối với bà Q.

+ Tại quyết định kháng nghị số: 245/QĐKNPT-VKS-DS ngày 26/6/2019 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhõn dõn huyện Thanh B với nội dung: Viện dẫn năm công bố luật đất đai không đúng. Bản án vẫn áp dụng pháp lệnh về án phí, lệ phí, bà Q là người cao tuổi nhưng vẫn yêu cầu bà nộp tiền tạm ứng án phí là không đúng. Xem xét thẩm định tại chỗ lại ghi biờn bản tại trụ sở UBND xã, thu thập chứng cứ khụng đầy đủ nên đánh gía chứng cứ không chính xác, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của đương sự.

+ Tại phiên toà hôm nay Kiểm sát viên phát biểu quan điểm việc thụ lý vụ án cho đến trước khi hội đồng xét xử vào nghị án, các đương sự và những người tiến hành tố tụng đều chấp hành theo trình tự quy định của Pháp luật, quan điềm của đại diện VKSND tỉnh Phú Thọ vẫn giữ nguyên toàn bộ quyết định kháng nghị của Viện kiểm sát nhõn dõn huyện Thanh B, đề nghị hội đồng xột xử chấp nhận toàn bộ kháng nghị, chấp nhận một phần kháng cáo của anh Trần Ngọc H, sửa một phần bản án sơ thẩm.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

[1] Về nội dung kháng cáo của anh H: Cấp phúc thẩm đó ủy tháoc điều tra bổ sung chứng cứ, vợ ông Lựu đó trình bày: Đất nhà bà giáp với đất nhà anh H, có gianh giới, mốc giới rừ ràng, cụ thể, chính quyền địa phương đó đo vẽ, xác định mốc giới rừ ràng, không có tranh chấp. UBND xã cũng đó cung cấp trớch lục bản đồ 299 thể hiện ranh giới giữa hai nhà bà Q và nhà ông Lựu. Anh Q mua bán chuyển nhượng ngày 15/9/2010 đó thông qua chính quyền địa phương, có trích lục bản đồ, có ô thửa, có chiều dài 20,57m, chiều rộng 10,0m, có diện tích 205,7m2 rất rừ ràng, được bà Q bàn giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 21/12/2010 và anh không có thắc mắc gỡ từ suốt thời gian đó đến nay (BL 07-14, 39, 40, 85). Anh H xuất trình “Giấy chuyển nhượng quyền sử dụng đất” bản pụ tụ ngày 28/10/2010, trong giấy có ghi “…chiều dài mặt đường 10m, chiều rộng kéo vuông đến mặt tam cấp dưới...”(BL 32), Hội đồng xét xử thấy “Giấy chuyển nhượng” không có kích thước cụ thể, không thông qua chính quyền địa phương, nên không có giá trị pháp lý.

+ Anh H và bà Q cũng trình bày không có việc mua bán đất với gia đình ông Lựu. Khi bà Q chuyển nhượng đất cho anh H thửa tại sơ đồ kích thước thửa đất của anh H thể hiện phía bắc giáp đất hộ ông Phan Văn Lựu (BL 07). Tại các văn bản, thủ tục giấy chuyển nhượng và tại quyết định số: 2162/QĐ-UBND Huyện Thanh B, quyết định chuyển quyền sử dụng 205,7m2 (đất ở 113m2đất vườn 92,7m2) của hộ bà Trần Thị Q sang anh Trần Ngọc H. Như vậy hộ anh Trần Ngọc H chỉ được sử dụng diện tích là 205,7m2. Tại bản chỉnh lý trích lục chính thửa đất của hộ anh H đang quản lý 372,3m2, như vậy cũng thừa 166,6m2 trong đó có 130,1m2 đất rừng sản xuất, 34,1m2 đất trồng cây lâu năm (theo biờn bản xác minh ngày 11/9/2019), do đó anh H kháng cáo yêu cầu Tòa án xác định anh có 30m chiều dài của diện thửa đất gia đình anh là không có cơ sở, vì vậy diện tích đất 130,1m2 mà các bên đều xác định không có mua bán chuyển nhượng cho nhau nên diện tích này căn cứ vào bản đồ hiện trạng và các chứng cứ có trong hồ sơ thửa được xác định là đất rừng sản suất mà gia đình bà Q đang sử dụng đó lâu năm nên cần buộc anh H phải tháo dỡ tường rào và trả lại đất cho bà Q là phự hợp.

+ Đối với diện tích 34,1m2 đất trồng cây lâu năm (theo biên bản xác minh ngày 11/9/2019). Tại bản tự khai của bà Q ngày 03/12/2018 bà Q cũng xác định khi bán đất cho anh H 205,7m2 …phía trước mặt đường và phía sau dài 10m...chiều sâu dài 20,57m, phía bắc giỏp nhà ụng Thanh Lựu, phía tây và phía nam giáp đất của nhà tôi…” (BL 23). Như vậy bà Q khụng cũn diện tích 34,1m2 như sơ đồ đó thể hiện, bà Q cũng không có bất cứ một tài liệu chứng cứ nào chứng minh mỡnh có diện tích đất này, do đó không thể xác định diện tích này là của bà Q được.

[2] Đối với nội dung kháng nghị của Viện kiểm sát nhõn dõn huyện Thanh B: Bản án sơ thẩm đó áp dụng năm 2014 của luật đất đai được công bố là không đúng. Việc áp dụng pháp lệnh án phí, lệ phí cũng không đúng, bà Q là người cao tuổi nhưng vẫn yêu cầu bà nộp tiền tạm ứng án phí là không đúng cần được rút kinh nghiệm. Đối với việc điều tra, thu thập chứng cứ: Cấp phúc thẩm đó điều tra bổ sung, củng cố chứng cứ để làm rừ đối với diện tích đất tranh chấp.

[3] Căn cứ vào phân tích, nhận định nêu trên thửa chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhõn dõn huyện Thanh B, chấp nhận một phần kháng cáo của anh H, sửa một phần bản án sơ thẩm là phù hợp. Các quyết định khác không có kháng cáo, không bị kháng nghị đó có hiệu lực pháp luật.

[4] Về án phí: Án phí sơ thẩm cần giữ nguyên. Còn án phí Phúc thẩm: Anh Trần Ngọc H kháng cáo, bản án bị sửa nên anh khụng phải chịu án phí. Bà Trần Thị Q khởi kiện nhưng bà là người cao tuổi nên được miễn án phí sơ thẩm và phúc thẩm là phự hợp.

Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Căn cứ khoản 2 Điều 308, khoản 2 Điều 309 Bộ luật tố tụng dân sự.

Căn cứ vào khoản 1 điều 203 Luật đất đai năm 2013; khoản 9 Điều 26, điều 147, điều 148 Bộ luật tố tụng dân sự; điểm đ khoản 1 Điều 12, khoản 1 Điều 26; khon 2 Điều 29 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của UBTVQH quy định án phí, lệ phí Toà án.

+ Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND huyện Thanh B, chấp nhận một phần kháng cáo của anh Trần Ngọc H, sửa một phần bản án sơ thẩm.

+ Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của bà Trần Thị Q.

- Buộc anh Trần Ngọc H phải tháo dỡ toàn bộ phần tường rào xây để trả lại đất cho bà Trần Thị Q theo mốc giới từ số: 7,16,17,18, 9, 8 (có sơ đồ kèm theo tại bản án sơ thẩm).

- Buộc anh Trần Ngọc H phải trả lại cho bà Trần Thị Q diện tích đất rừng sản xuất 130,1m2, có mốc giới từ số 7,16,17,18, 9, 10, 8, 7 (có sơ đồ kèm theo tại bản án sơ thẩm) để bà Q sử dụng theo quy định của nhà nước.

+ Không chấp nhận yêu cầu của bà Trần Thị Q đòi diện tích 34,1 m2 (có các điểm 10,8,9,10, có sơ đồ kèm theo tại bản án sơ thẩm).

+ Về án phí Phúc thẩm:

- Anh Trần Ngọc H không phải chịu án phí phúc thẩm. Trả lại cho anh H 300.000đ đó nộp tại Chi cục THADS huyện Thanh B theo biờn lai thu số 0001697 ngày 21/6/2019.

- Miễn án phí dân sự sơ thẩm và án phí phúc thẩm cho bà Bà Trần Thị Q.

- Người được thi hành án dân sự, người phải thi hành án dân sự có quyền thoả thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, tự nguyện thi hành án hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại các điều 6,7, 7a và 9 Luật Thi hành án dân sự; thời hiệu thi hành án được thực hiện theo quy định tại điều 30 Luật Thi hành án dân sự.

+ Các quyết định khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, không bị kháng nghị đó có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo kháng nghị.

+ Bản án Phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án./.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

223
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2019/DS-PT ngày 20/09/2019 về tranh chấp quyền sử dụng đất

Số hiệu:60/2019/DS-PT
Cấp xét xử:Phúc thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Phú Thọ
Lĩnh vực:Dân sự
Ngày ban hành: 20/09/2019
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về