Bản án 60/2018/HSST ngày 15/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

TOÀ ÁN NHÂN DÂN HUYỆN HIỆP HÒA - TỈNH BẮC GIANG

BẢN ÁN 60/2018/HSST NGÀY 15/08/2018 VỀ TỘI TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

Ngày 15 tháng 8 năm 2018, tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang xét xử sơ thẩm vụ án hình sự thụ lý số 52/2018/TLST-HS ngày 21 tháng 6 năm 2018, đối với các bị cáo:

1/ Triệu Văn T - sinh năm 1965

Nơi cư trú: thôn Trung Hưng, xã Mai Trung, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Văn hóa: Lớp 7/10; Con ông Triệu Xuân Kiểm và bà Đỗ Thị Hợp; Vợ là Nguyễn Thị Liễu và có 03 con (lớn sinh năm 1991, nhỏ sinh năm 1995).

Tiền sự: không; Tiền án: Tại Bản án số 04/2015/HSST ngày 20/01/2015 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa xử phạt Triệu Văn T 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”. T chấp hành xong bản án ngày 16/7/2017.

Nhân thân: Bản án số 85/2009/HSST ngày 26/11/2009 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa xử phạt Triệu Văn T 02 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” và 02 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tổng hợp hình phạt buộc T phải chấp hành hình phạt chung của hai tội là 04 năm tù, phạt bổ sung 5.000.000 đồng, truy thu đối với T 190.000 đồng. T chấp hành xong bản án ngày 10/7/2012.

Bị cáo bị bắt quả tang, bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/4/2018 đến nay, được trích xuất – Có mặt tại phiên tòa.

2/ Nguyễn Văn Th - sinh năm 1964

Nơi cư trú: thôn Ninh Tào, xã Hợp Thịnh, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang.

Quốc tịch: Việt Nam; Dân tộc: Kinh; Tôn giáo: Không; Nghề nghiệp: Làm ruộng; Văn hóa: Lớp 7/10; Con ông Nguyễn Văn Nhận và bà Nguyễn Thị Nấm; Vợ là Trần Thị Nga (đã ly hôn) và có 03 con (lớn sinh năm 1988, nhỏ sinh năm 1993).

Tiền án, tiền sự: không.

Nhân thân: Bản án số 161/2005/HSST ngày 19/12/2005 của Tòa án nhân dân tỉnh

Bắc Giang xử phạt Nguyễn Văn Th 07 năm tù về tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, phạt bổ sung 5.000.000 đồng. Chấp hành xong bản án ngày 26/01/2011.

Bị cáo bị giữ người trong trường hợp khẩn cấp và bị tạm giữ, tạm giam từ ngày 06/4/2018 đến nay, được trích xuất – Có mặt tại phiên tòa.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Bản cáo trạng số 55/CT-VKS ngày 21 tháng 6 năm 2018 của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang truy tố Triệu Văn T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo điểm c khoản 1 Điều 249 – Bộ luật hình sự và truy tố Nguyễn Văn Th về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo khoản 1 Điều 251 – Bộ luật hình sự.

Tóm tắt nội dung vụ án như sau: Hồi 13 giờ 15 phút ngày 06/4/2018, tại thôn Ninh Tào, xã Hợp Thịnh, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm về ma túy Công an huyện Hiệp Hòa phối hợp Công an xã Hợp Thịnh, huyện Hiệp Hòa bắt quả tang Triệu Văn T đang có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy. Tang vật thu giữ gồm: Thu giữ tại túi áo khoác bên phải của T đang mặc 01 (một) gói nilon màu xanh được hàn kín bên trong có 01 (một) gói giấy (loại giấy vở học sinh) bên trong chứa chất cục bột màu trắng nghi ma túy heroin (được niêm phong trong phong bì ký hiệu QT), 01 (một) chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel đã qua sử dụng (được niêm phong trong phong bì ký hiệu ĐT) và 01 (một) xe mô tô nhãn hiệu Wave Anpha sơn màu đen, biển kiểm soát: 98D1-672.05. T khai nhận chất cục bột màu trắng thu giữ là ma túy heroin T vừa mua của Nguyễn Văn Th với giá 1.900.000 đồng mục đích để sử dụng.

Cùng ngày, Cơ quan điều tra tiến hành khám xét khẩn cấp nơi ở của T tại thôn Trung Hưng, xã Mai Trung, huyện Hiệp Hòa nhưng không thu giữ được gì.

Căn cứ lời khai của T, ngày 06/4/2018 Cơ quan điều tra tiến hành khám xét nơi ở của gia đình Nguyễn Văn Th tại thôn Ninh Tào, xã Hợp Thịnh, huyện Hiệp Hòa. Kết quả: Thu giữ tại hòm tôn gần giường ngủ của Nguyễn Văn Th 01 (một) chiếc cân điện tử.

Nguyễn Văn Th đã tự giác giao nộp số tiền 1.900.000 đồng (Th khai nhận đây là số tiền vừa bán ma túy cho Triệu Văn T) và 01 chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng, có viền màu hồng đã qua sử dụng (được niêm phong trong phong bì ký hiệu TV). Cùng ngày, Cơ quan điều tra đã ra Lệnh bắt giữ người trong trường hợp khẩn cấp đối với Th về hành vi “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Tại kết luận giám định số 464/KL-PC54 ngày 09/4/2018 của Phòng kỹ thuật hình sự - Công an tỉnh Bắc Giang, kết luận: Trong 01 (một) phong bì có ký hiệu “QT”: Mẫu chất cục bột màu trắng đựng trong 01 (một) gói giấy (loại giấy vở học sinh), được gói bên ngoài bằng nilon màu xanh được hàn kín là chất ma túy Heroine, có khối lượng 0,928 gam.

Ngày 08/4/2018, Cơ quan điều tra kiểm tra chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel lắp sim số 01675.155.331 thu giữ của T và chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng, có viền màu hồng lắp sim số 0169.214.1651 thu giữ của Th. Kết quả, ngày 05 và 06/4/2018 Triệu Văn T và Nguyễn Văn Th có liên lạc với nhau để mua bán ma túy.

Kết quả điều tra xác định: Khoảng 12 giờ 40 phút ngày 06/4/2018, T sử dụng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu Masstel lắp sim số 01675.155.331 gọi điện thoại cho Th (Th sử dụng chiếc điện thoại di động nhãn hiệu OPPO màu trắng, có viền màu hồng lắp sim số 0169.214.1651) hỏi Th có nhà không để đến mua ma túy. Sau đó, T một mình đi xe mô tô nhãn hiệu Wave Anpha sơn màu đen, biển kiểm soát: 98D1-672.05 đến nhà Th hỏi Th bán cho 1.900.000 đồng tiền ma túy heroin. Th cầm tiền và đưa cho T 01 (một) gói nilon màu xanh được hàn kín bên trong có chứa ma túy heroin. T cầm gói ma túy và đút vào túi áo khoác ngoài bên phải đang mặc và ra lấy xe đi về. T đi được một đoạn thì bị Công an huyện Hiệp Hoà bắt quả tang và thu giữ toàn bộ tang vật.

Về nguồn gốc số ma túy, Nguyễn Văn Th khai nhận: Th mua của một người đàn ông Th không biết tên, tuổi, địa chỉ ở Khu vực bờ hồ Thống Nhất, thị trấn Thắng ngày 04/4/2018 với giá 2.000.000 đồng về để bán lại kiếm lời, Th đã sử dụng một ít, số còn lại Th bán lại cho T vào ngày 06/4/2018thì bị Cơ quan Công an bắt và thu giữ. Cơ quan điều tra đã xác minh nhưng không xác định được đối tượng đã bán ma tuý cho Th như Th khai. Do vậy không đủ căn cứ để xử lý đối với đối tượng đã bán ma tuý cho Th.

Tại phiên Toà hôm nay, các bị cáo Triệu Văn T, Nguyễn Văn Th đã thừa nhận toàn bộ nội dung bản cáo trạng mà Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa đã truy tố. Các bị cáo đều đã nhận thấy rõ tội lỗi, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

Đại diện Viện kiểm sát huyện Hiệp Hòa trước phiên toà hôm nay vẫn giữ nguyên quan điểm như bản cáo trạng đã truy tố. Sau khi đánh giá nhân thân, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của các bị cáo đã đề nghị Hội đồng xét xử tuyên bố bị cáo Triệu Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị cáo Nguyễn Văn Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Đề nghị:

- Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 38 – Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Triệu Văn T từ 2 năm 6 tháng đến 3 năm tù giam.

- Áp dụng khoản 1 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 – Bộ luật hình sự, xử phạt bị cáo Nguyễn Văn Th từ 3 năm đến 3 năm 6 tháng tù giam.

Phạt bổ sung bị cáo Th từ 5.000.000đ đến 6.000.000đ để sung công quỹ nhà nước.

Về vật chứng, đề nghị:

- Tịch thu tiêu hủy toàn bộ số ma túy thu được và 01 chiếc cân điện tử.

- Tịch thu sung công quỹ Nhà nước 02 chiếc điện thoại của các bị cáo và số tiền mua bán ma túy 1.900.000đ.

- Trả lại cho bị cáo T chiếc xe mô tô biển kiểm soát 98D1-672.05

Về án phí, buộc các bị cáo phải chịu án phí hình sự theo quy định của pháp luật.

Các bị cáo Triệu Văn T, Nguyễn Văn Th không tranh luận gì mà chỉ đề nghị Hội đồng xem xét giảm nhẹ hình phạt. .

NHẬN ĐỊNH CỦA HỘI ĐỒNG XÉT XỬ

Căn cứ vào các chứng cứ, tài liệu đã được thẩm tra tại phiên toà. Căn cứ vào kết quả tranh tụng, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của các bị cáo, nhận thấy:

Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an huyện Hiệp Hòa, Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa, Điều tra viên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo và những người tham gia tố tụng khác không ai có ý kiến hoặc khiếu nại gì. Do vậy, các hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng là hợp pháp.

Lời khai nhận tội của các bị cáo trước phiên toà hôm nay là T khẩn, phù hợp với lời khai của bị cáo tại giai đoạn điều tra, đồng thời phù hợp với các tài liệu chứng cứ mà cơ quan điều tra đã thu thập được thể hiện trong hồ sơ vụ án về thời gian, địa điểm và diễn biến của quá trình các bị cáo thực hiện hành vi phạm tội. Hội đồng xét xử có đủ cơ sở để kết luận: Khoảng 13 giờ ngày 06/4/2018, tại nhà ở của mình, Nguyễn Văn Th đã có hành vi bán 0,928 gam ma túy heroine cho Triệu Văn T, được T trả số tiền 1.900.000đ. Ngay sau khi mua được ma túy, T cất giấu trong người, ý định đem về nhà sử dụng nhưng vừa ra khỏi cổng nhà Th được một đoạn thì bị Công an huyện Hiệp Hòa bắt quả tang.

Với 0,928 gam ma túy heroine thu được trên người bị cáo Triệu Văn T cùng với việc bị cáo khai mua đem về sử dụng thì hành vi của bị cáo T đã có đã có đầy đủ các yếu tố cấu T tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” tội danh và hình phạt áp dụng đối với bị cáo T được quy định tại điềm c khoản 1 điều 249 Bộ luật hình sự. Đối với hành vi của bị cáo Nguyễn Văn Th bán số ma túy trên cho bị cáo T, được T trả 1.900.000đ thì hành vi của bị cáo Th đã có đủ các yếu tố cấu T tội “Mua bán trái phép chất ma túy”, tội danh và hình phạt áp dụng đối với bị cáo Th được quy định tại khoản 1 điều 251 Bộ luật hình sự , do đó bản cáo của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang truy tố các bị cáo là đảm bảo có căn cứ.

Hành vi phạm tội của các bị cáo là nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm hại đến sự quản lý độc quyền của Nhà nước đối với các chất ma túy, gây ảnh hưởng xấu đến trật tự an toàn xã hội, đồng thời còn là nguyên nhân và điều kiện phát sinh các loại tội phạm và tệ nạn xã hội khác. Vì vậy, đối với các bị cáo, cần thiết phải có hình phạt nghiêm khắc, cách ly các bị cáo khỏi đời sống xã hội một thời gian nhất định mới có tác dụng giáo dục riêng và phòng ngừa chung.

Nhân thân của các bị cáo đều đã từng bị kết án về tội phạm ma túy, bị cáo Th bị kết án 1 lần nhưng hiện đã được xóa án tích; bị cáo T bị kết án hai lần, trong đó lần đầu đã được xóa án, còn đối với Bản án số 04/2015/HSST ngày 20/01/2015 của Tòa án nhân dân huyện Hiệp Hòa xử phạt Triệu Văn T 03 năm tù về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”, bị cáo chấp hành xong bản án ngày 16/7/2017, đến nay chưa được xóa án nên bị cáo T phải chịu tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại điểm h khoản 1 Điều 52 – Bộ luật hình sự.

Tuy nhiên, tại giai đoạn điều tra và tước phiên toà hôm nay, cả hai bị cáo đều khai báo T khẩn và tỏ ra ăn năn hối lỗi; bị cáo T có bố đẻ được tặng thưởng Huân chương kháng chiến, đây là những tình tiết giảm nhẹ trách nhiện hình sự được quy định tại điểm s khoản 1và khoản 2 Điều 51 - Bộ luật hình sự được Hội đồng xét xử xem xét để giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Bị cáo T là đối tượng nghiện ma túy, mua ma túy về sử dụng, bị cáo không có nghề nghiệp nên không cần thiết áp dụng hình phạt bổ sung đối với bị cáo. Riêng bị cáo Th, bị cáo thực hiện việc bán ma túy với mục đích thu lợi bất chính, bị cáo có tài sản có giá trị nên cần phạt bổ sung bị cáo một khoản tiền sung vào công quỹ Nhà nước.

Các bị cáo đang bị tạm giam, cần tiếp tục tạm giam các bị cáo để đảm bảo cho việc thi hành án.

Về vật chứng: Đối với số ma tuy thu đư ợc là vật cấm lưu hành nên cần được tịch thu tiêu hủy. Đối với số tiền 1.900.000đ là tiền mua bán ma túy, 02 chiếc điện thoại di động và 01 chiếc cân điện tử thu của các bị cáo, do sử dụng vào việc phạm tội nên cần tịch thu sung công quỹ Nhà nước.

Đối với chiếc xe mô tô biển kiểm soát 98D1-672.05 thu của bị cáo T, đây là tài sản hợp pháp của bị cáo, không sử dụng vào mục đích phạm tội nên cần trả lại cho bị cáo nhưng tạm giữ lại để đảm bảo thi hành án.

Án phí: Các bị cáo phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo quy định của pháp luật. Vì các lẽ trên,

QUYẾT ĐỊNH

Tuyên bố: Bị cáo Triệu Văn T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”; bị cáo Nguyễn Văn Th phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”.

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 và Điều 38 - Bộ luật hình sự,

Xử phạt: Bị cáo Triệu Văn T 01 (một) năm 09 tháng tu , thơi han tu tinh tư ngay 06 tháng 4 năm 2018

Áp dụng khoản 1, khoản 5 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 38 - Bộ luật hình sự,

Xử phạt: Bị cáo Nguyễn Văn Th 02 (hai) năm 03 tháng tu , thơi han tu tinh tư ngày 06 tháng 4 năm 2018

Phạt bổ sung bị cáo Nguyễn Văn Th 5.000.000đ (năm triệu đồng) sung vào công quỹ Nhà nước.

*Vật chứng:Áp dụng Điều 47 - Bộ luật hình sự và điều 106 - Bộ luật tố tụng hình sự:

+ Tịch thu tiêu hủy 01 phong bì thư chứa ma túy đã niêm phong có ký hiệu “QT”.

+ Tịch thu sung công quỹ Nhà nước số tiền 1.900.000đ; 02 chiếc điện thoại di động và 01 chiếc cân điện tử thu được của hai bị cáo (có đặc điểm như Biên bản bàn giao vật chứng).

+ Trả lại cho bị cáo Triệu Văn T chiếc xe mô tô biển kiểm soát 98D1-672.05 (có đặc điểm như Biên bản bàn giao vật chứng) nhưng tạm giữ để đảm bảo thi hành án.

- Án phí : Áp dụng khoản 2 Điều 136 – Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 và Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quộc hội, buộc Triệu Văn T và Nguyễn Văn Th mỗi người phải nộp 200.000đ tiền án phí hình sự sơ thẩm.

Áp dụng điều 331, Điều 333 Bộ luật tố tụng hình sự (2015), báo cho bị cáo có mặt có quyền kháng cáo trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

229
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 60/2018/HSST ngày 15/08/2018 về tội tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:60/2018/HSST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Huyện Hiệp Hòa - Bắc Giang
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 15/08/2018
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về