Bản án 59/2021/HS-ST ngày 22/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy

TÒA ÁN NHÂN DÂN THỊ XÃ TÂN UYÊN, TỈNH BÌNH DƯƠNG

BẢN ÁN 59/2021/HS-ST NGÀY 22/04/2021 VỀ TỘI MUA BÁN TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY VÀ TÀNG TRỮ TRÁI PHÉP CHẤT MA TÚY

 Ngày 22 tháng 4 năm 2021, tại trụ sở Toà án nhân dân thị xã Tân Uyên xét xử sơ thẩm công khai vụ án hình sự sơ thẩm thụ lý số 57/2021/TLST-HS ngày 01 tháng 4 năm 2021 theo Quyết định đưa vụ án ra xét xử số 71/2021/QĐXXST-HS ngày 08 tháng 4 năm 2021 đối với các bị cáo:

1. Nguyễn Văn R, sinh năm 1997 tại K; nơi thường trú: ấp Hiệp Hòa, xã B, huyện Vĩnh Thuận, tỉnh K; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: Lớp 05/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn L, sinh năm 1972 và bà Võ Thanh N, sinh năm 1971; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/11/2020 cho đến nay; có mặt.

2. Nguyễn Văn P, sinh ngày 18/10/2002 tại Đ; thường trú: ấp Long Phước, xã Long Khánh A, thị xã H, tỉnh Đ; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: Lớp 01/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con ông Nguyễn Văn N, sinh năm 1974 và bà Huỳnh Thị M, sinh năm 1976; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/11/2020 cho đến nay; có mặt.

3. Nguyễn Hoàng P, sinh ngày 30/12/2002 tại C; thường trú: ấp Đông Hiển, xã Đông Thuận, huyện T, thành phố C; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: Lớp 10/12; dân tộc: Kinh; giới tính: nam; tôn giáo: không; quốc tịch: Việt Nam; con bà Nguyễn Thị Kim P, sinh năm 1982; cha không rõ; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: không; bị bắt tạm giữ, tạm giam từ ngày 25/11/2020 cho đến nay; có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hoàng P: ông Nguyễn Văn H là luật sư thực hiện trợ giúp pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Bình Dương, có mặt.

4. Lý T, sinh ngày 17/7/2004 tại S; thường trú: ấp An Định, thị trấn Kế Sách, huyện K, tỉnh Sóc T; tạm trú: khu phố Ông Đông, phường Tân Hiệp, thị xã T, tỉnh B; nghề nghiệp: không; trình độ văn hóa: Lớp 5/12; dân tộc: Khơmer; giới tính: nam; tôn giáo: Phật giáo; quốc tịch: Việt Nam; con ông Lý X, sinh năm 1981 và bà Nguyễn Thị Hồng L, sinh năm 1973; chưa có vợ, con; tiền án, tiền sự: Không; bị cáo tại ngoại, có mặt.

Người bào chữa cho bị cáo Lý T: ông Đỗ Thanh V là Trợ giúp viên pháp lý của Trung tâm trợ giúp pháp lý tỉnh Bình Dương, có mặt.

Người đại diện hợp pháp cho bị cáo Lý T: bà Nguyễn Thị Hồng L, sinh năm 1973 (là mẹ bị cáo); địa chỉ: ấp An Định, thị trấn Kế Sách, huyện K, tỉnh Sóc T, có mặt.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan:

- Ông Nguyễn Văn D, sinh năm 1985; địa chỉ: ấp Kiến Hưng 1, xã Kiến Thành, huyện C, tỉnh A, vắng mặt.

- Ông Nguyễn Anh D, sinh năm 1982; địa chỉ: khu phố Ông Đông, phường Tân Hiệp, thị xã T, tỉnh Bình Dương, vắng mặt.

Người làm chứng: ông Nguyễn Hoài L, ông Bùi Xuân H, ông Nguyễn Việt T, vắng mặt.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên toà, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:

Bị cáo Nguyễn Văn R là đối tượng nghiện ma túy, loại ma túy mà R sử dụng là ma túy đá loại Methamphetamine. Bị cáo bắt đầu sử dụng ma túy từ tháng 02/2020 và thuê phòng số 26B Nhà trọ Nguyễn Thị T thuộc khu phố Tân Bình, phường Tân Hiệp, thị xã T, tỉnh Bình Dương để ở và bán ma túy.

Các bị cáo Nguyễn Hoàng P, Nguyễn Văn P và Lý T là bạn với nhau và là đối tượng nghiện ma túy, loại ma túy mà Hoàng P, Văn P, Lý T sử dụng là ma túy đá loại Methamphetamine.

Khoảng 12 giờ ngày 22/11/2020, bị cáo R sử dụng điện thoại di động truy cập mạng xã hội Zalo vào nick “Danh VIP” là người thường bán ma túy cho Rành để hỏi mua ma túy đá mang về phòng trọ với mục đích là bán lại cho các đối tượng nghiện. Sau khi truy cập thì R gặp đối tượng (không rõ tên) và hỏi mua 2.500.000 đồng ma túy đá thì đối tượng đồng ý và nói R đi đến khu vực cầu Phú Cường thuộc xã Bình Mỹ, huyện C, thành phố Hồ Chí Minh để lấy. R đón xe ôm đến khu vực cầu Phú Cường thì gặp mặt và đưa cho đối tượng số tiền 2.500.000 đồng và nhận 05 gói ny lon hàn kín bên trong chứa tinh thể màu trắng. Sau khi nhận ma túy, R thuê xe ôm chở về phòng trọ số 26B Nhà trọ Nguyễn Thị T thuộc khu phố Tân Bình, phường Tân Hiệp, thị xã T và bỏ số ma túy vừa mới mua được vào tủ gỗ trong phòng trọ cất giữ để sau đó bán lại cho các đối tượng nghiện.

Khoảng 13 giờ ngày 25/11/2020, các bị cáo Nguyễn Văn P và Nguyễn Hoàng P đến phòng trọ của bị cáo Lý T để chơi. Tại đây, Văn P rủ Hoàng P và T góp tiền mua ma túy đá về sử dụng chung thì Hoàng P và T đồng ý. Văn P, Hoàng P mỗi người góp 150.000 đồng, T góp 100.000 đồng. Do Văn P và Hoàng P không có tiền nên Văn P nói với T là cho mượn điện thoại di dộng nhãn hiệu Iphone 7 màu đen của T để đem đi thế chấp lấy 3.000.000 đồng để mua ma túy và số tiền còn lại cho Văn P mượn để chuộc điện thoại của Văn P đang cầm cố thì T đồng ý. T đưa điện thoại di động Iphone 7 màu đen của T cho Văn P. Sau đó, Hoàng P điều khiển xe mô tô biển số 67T1 - 6942 chở Văn P đến tiệm cầm đồ Anh D thuộc khu phố Ông Đông, phường Tân Hiệp, thị xã T để cầm điện thoại. Tại đây, Hoàng P vào cầm cố điện thoại di dộng nhãn hiệu Iphone 7 màu đen cho ông Nguyễn Anh D để lấy số tiền 3.000.000 đồng. Sau khi có 3.000.000 đồng, Hoàng P điều khiển xe mô tô biển số 67T1 - 6942 chở Văn P đến phòng trọ số 26B nhà trọ Nguyễn Thị T để gặp R là người từng bán ma túy cho Văn P và Hoàng P trước đây để mua ma túy về sử dụng.

Khi đến khu nhà trọ Nguyễn Thị T, Văn P đưa cho Hoàng P 400.000 đồng để đi vào phòng trọ của R mua ma túy, còn Văn P đứng bên ngoài chờ. Nguyễn Hoàng P đi vào phòng trọ gặp R hỏi mua số tiền 400.000 đồng ma túy đá thì R đồng ý. Hoàng P đưa tiền cho R và R đưa Hoàng P 01 gói ny long hàn kín chứa tinh thể màu trắng. Sau khi nhận ma túy, Hoàng P đi ra đưa cho Văn P cất giữ trong túi quần phía trước bên phải rồi Hoàng P điều khiển xe mô tô biển số 67T1 - 6942 chở Văn P đi về phòng trọ của T để cùng nhau sử dụng. Khi đi đến đoạn đường thuộc khu phố Ông Đông, phường Tân Hiệp, thị xã T thì lực bị lượng Công an phường Tân Hiệp tiến hành kiểm tra hành chính và phát hiện 01 gói ny lon hàn kín chứa tinh thể màu trắng. Công an phường Tân Hiệp tiến hành lập biên bản bắt người phạm tội quả tang đối với Văn P, Hoàng P và thu giữ vật chứng có liên quan gồm: 01 gói ny lon hàn kín chứa tinh thể màu trắng; 01 chiếc xe mô tô nhãn hiệu Vinashin biển số 67T1 - 6942 và số tiền 2.600.000 đồng.

Công an phường Tân Hiệp lập hồ sơ ban đầu và bàn giao Nguyễn Hoàng P và Nguyễn Văn P cùng hồ sơ vụ việc, vật chứng cho Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên thụ lý theo thẩm quyền.

Trên cơ sở lời khai của Nguyễn Hoàng P và Nguyễn Văn P, Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiến hành ra Lệnh giữ người trong trường hợp khẩn cấp và Lệnh khám xét khẩn cấp phòng 26B Nhà trọ Nguyễn Thị T thuộc khu phố Tân Bình, phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương của Nguyễn Văn R thuê để ở và thu giữ 05 gói ny long miệng hàn kín chứa tinh thể màu trắng bên trong hộc tủ; 01 cân tiểu ly màu đen có ghi chữ “Digital Scale; 10 ống thủy tinh; 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế; 02 cái hột quẹt màu đỏ; 3.600.000 đồng; 01 điện thoại di động hiệu Iphone 6 màu hồng; 01 điện thoại di động hiệu Vsmart màu hồng.

Tại Bản kết luận giám định số 748/MT - PC09 ngày 03/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong gói ny long hàn kín thu giữ của Nguyễn Hoàng P, Nguyễn Văn P là ma túy, có khối lượng 0,2434 gam loại Methamphetamine.

Tại Bản kết luận giám định số 749/MT-PC09 ngày 03/12/2020 của Phòng kỹ thuật hình sự Công an tỉnh Bình Dương kết luận: Chất tinh thể màu trắng trong 05 gói ny long hàn kín thu giữ của Nguyễn Văn R là ma túy, có tổng khối lượng 6,6910 gam loại Methamphetamine.

Bị cáo Nguyễn Văn P có ngày sinh 18/10/2002 nhưng đăng ký khai sinh này 08/5/2003 nên ngày 20/01/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên ban hành Quyết định trưng cầu giám định pháp y về độ tuổi đối với bị cáo. Tại Bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số: 0067/ĐT/2021 ngày 26/01/2021 của Trung tâm pháp y Sở y tế Đồng Nai kết luận độ tuổi của Nguyễn Văn P là 18 tuổi 06 tháng (+/- 06 tháng) kể từ ngày giám định 22/01/2021.

Bị cáo Nguyễn Hoàng P có ngày sinh 30/12/2002 nhưng đăng ký khai sinh ngày 11/04/2003 nên ngày 20/01/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên ban hành Quyết định trưng cầu giám định pháp y về độ tuổi đối với bị cáo. Tại Bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số: 0068/ĐT/2021 ngày 26/01/2021 của Trung tâm pháp y Sở y tế Đồng Nai kết luận độ tuổi của Nguyễn Hoàng P là 18 tuổi 06 tháng (+/- 06 tháng) kể từ ngày giám định 22/01/2021.

Bị cáo Lý T có ngày sinh 17/7/2004 nhưng đăng ký khai sinh ngày 21/8/2008 nên ngày 21/01/2021 Cơ quan cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên ban hành Quyết định trưng cầu giám định pháp y về độ tuổi đối với bị cáo. Tại Bản kết luận giám định pháp y về độ tuổi số: 0069/ĐT/2021 ngày 26/01/2021 của Trung tâm pháp y Sở y tế Đồng Nai kết luận độ tuổi của Lý T là 17 tuổi (+/- 06 tháng) kể từ ngày giám định 21/01/2021.

Quá trình điều tra, bị cáo Nguyễn Văn R khai nhận trong tháng 11/2020 đã 02 lần bán ma túy cho Nguyễn Văn P và Nguyễn Hoàng P với tổng số tiền 500.000 đồng.

Xe môtô hiệu Vinashin biển số 67T1-6942 do ông Trần Văn D đứng tên đăng ký chủ sở hữu. Tháng 10/2020, ông Dồi đã bán xe này cho Nguyễn Hoàng P với giá 1.500.000 đồng nhưng chưa làm thủ tục chuyển quyền sở hữu theo quy định. Ngày 25/11/2020, bị cáo Nguyễn Hoàng P điều khiển xe này chở bị cáo Nguyễn Văn Phúc đến phòng trọ của bị cáo Nguyễn Văn R để mua ma túy về sử dụng và bị tạm giữ.

Cáo trạng số 62/CT-VKS.TU ngày 31/3/2021 của Viện Kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương truy tố bị cáo Nguyễn Văn R về tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, i khoản 2, Điều 251 của Bộ luật hình sự, truy tố các bị cáo Nguyễn Hoàng P, Nguyễn Văn P, Lý T về tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1, Điều 249 và Chương XII của Bộ luật hình sự. Tại phiên tòa, Kiểm sát viên giữ nguyên quyết định truy tố và đề nghị Hội đồng xét xử:

Áp dụng điểm b, i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Bị cáo Nguyễn Văn R mức hình phạt từ 10 đến 11 năm tù;

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; các Điều 17, Điều 38, Điều 58, Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật hình sự, xử phạt:

- Bị cáo Nguyễn Hoàng P mức hình phạt từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù;

- Bị cáo Nguyễn Văn P mức hình phạt từ 01 năm 03 tháng đến 01 năm 06 tháng tù;

Áp dụng điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; các Điều 17, Điều 38, Điều 58, Điều 91 và Điều 101 củ Bộ luật Hình sự, xử phạt:

- Bị cáo Lý T mức hình phạt từ 01 năm đến 01 năm 03 tháng tù;

Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ các Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự và Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, đề nghị Hội đồng xét xử tuyên xử:

- Tịch thu, tiêu hủy: 5,8 gam khối lượng ma túy còn lại sau giám định được đựng trong 02 bì thư đã được niêm phong, ký hiệu 748/PC09 và 749/PC09 ngày 03/12/2020 của Phòng KTHS Công an tỉnh Bình Dương; 01 cân tiểu ly màu đen có ghi chữ Digital Scale; 10 ống thủy tinh dài 20cm, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế, 02 cái hộp quẹt màu đỏ.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động Iphone 6 màu hồng, Model A1688 FCCID BCGE2946AIC:579C-E2946A; 01 xe mô tô nhãn hiệu Vinashin (kiểu Wave) biển số 67T1-6942 màu trắng và số tiền 400.000 đồng do bị cáo R bán ma túy ngày 25/11/2020 mà có.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn R 01 điện thoại di động Vsmart màu đen, có kí hiệu ACB00078205 và số tiền: 3.200.000 đồng.

- Trả lại cho bị cáo Lý T số tiền 2.600.000 đồng.

- Buộc bị cáo Nguyễn Văn R phải nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 500.000 đồng thu lợi bất chính từ việc bán ma túy trước đó cho Nguyễn Văn P và Nguyễn Hoàng P.

Đối với đối tượng không rõ nhân thân, lai lịch có hành vi bán ma túy cho bị cáo Rành, đến nay chưa xác định được tên và địa chỉ cụ thể. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiếp tục điều tra xác minh và xử lý sau.

Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo đã khai nhận hành vi phạm tội như Cáo trạng đã truy tố. Bị cáo Nguyễn Văn R và Nguyễn Văn P không trình bày lời bào chữa.

Người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hoàng P và bị cáo Lý T trình bày lời bào chữa: Thống nhất với Cáo trạng của Viện kiểm sát đã truy tố đối với các bị cáo về tội danh và khung hình phạt; các bị cáo có nhân thân tốt; phạm tội lần đầu; khi thực hiện hành vi phạm tội là người dưới 18 tuổi. Bị cáo Lý T là người dân tộc Khơmer và gia đình thuộc hộ cận nghèo. Do đó đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự xử phạt các bị cáo dưới mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị.

Bị cáo Nguyễn Hoàng P và Lý T không bổ sung ý kiến bào chữa.

Người đại diện hợp pháp của bị cáo Lý T không bổ sung ý kiến bào chữa. Nói lời sau cùng: Các bị cáo đã nhận thấy hành vi của mình là sai trái, vi phạm pháp luật, ăn năn hối cải và đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm nhẹ hình phạt.

NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN

Trên cơ sở nội dung vụ án, căn cứ vào các tài liệu trong hồ sơ vụ án đã được tranh tụng tại phiên tòa, Hội đồng xét xử nhận định như sau:

1 Về thủ tục tố tụng: Về hành vi, quyết định tố tụng của Cơ quan điều tra Công an thị xã Tân Uyên, Điều tra viên, Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, Kiểm sát viên trong quá trình điều tra, truy tố đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của Cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng.

[2] Tại phiên tòa, các bị cáo Nguyễn Văn R, Nguyễn Văn P, Nguyễn Hoàng P và Lý T đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình như nội dung Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương đã truy tố. Lời nhận tội của các bị cáo phù hợp với với lời khai tại cơ quan điều tra, biên bản bắt người phạm tội quả tang, biên bản hỏi cung bị can, biên bản niêm phong, kết luận giám định, các tài liệu, chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án. Do đó, Hội đồng xét xử có đủ cơ sở kết luận: Từ tháng 11/2020, tại khu phố Tân Bình, phường Tân Hiệp, thị xã T, tỉnh B, bị cáo Nguyễn Văn R có hành vi nhiều lần bán trái phép chất ma túy loại Methamphetamine cho Nguyễn Văn P và Nguyễn Hoàng P, thu lợi bất chính số tiền 500.000 đồng; ngày 25/11/2020 bị cáo tiếp tục bán ma túy cho Nguyễn Hoàng P với giá 400.000 đồng và bị thu giữ 6,6910 gam ma túy loại Methamphetamine tại phòng trọ số 26B Nhà trọ Nguyễn Thị T thuộc khu phố Tân Bình, phường Tân Hiệp, thị xã Tân Uyên, tỉnh B. Ngày 25/11/2020 tại khu phố Ông Đông, phường Tân Hiệp, thị xã T, các bị cáo Nguyễn Văn P, Nguyễn Hoàng P và Lý T có hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy, loại Methamphetamine, khối lượng 0,2434 gam đã mua của bị cáo Nguyễn Văn R nhằm mục đích để sử dụng.

Hành vi của bị cáo Nguyễn Văn R đã phạm vào tội “Mua bán trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm b, i khoản 2, Điều 251 của Bộ luật hình sự; hành vi của các bị cáo Nguyễn Hoàng P, Nguyễn Văn P và Lý T đã phạm vào tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy” theo quy định tại điểm c khoản 1, Điều 249 và Chương XII của Bộ luật hình sự. Cáo trạng của Viện kiểm sát nhân dân thị xã Tân Uyên truy tố các bị cáo về tội danh và khung hình phạt như trên là có căn cứ, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.

[3] Hành vi mà các bị cáo đã thực hiện là nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm đến hoạt động quản lý độc quyền của Nhà nước đối với chất ma túy và các chất gây nghiện. Khi thực hiện hành vi phạm tội, các bị cáo là người đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự, nhận thức rõ hành vi của mình là vi phạm pháp luật hình sự nhưng vì để thỏa mãn cơn nghiện và thái độ coi thường pháp luật nên các bị cáo vẫn cố ý thực hiện. Hiện nay, tình hình nghiện hút chất ma túy đang diễn ra phức tạp trong mọi tầng lớp. Tệ nạn này là mối quan tâm của toàn xã hội và là nguyên nhân làm phát sinh các loại tội phạm phạm hình sự khác. Do đó, để có tác dụng giáo dục các bị cáo ý thức tuân theo pháp luật, cần có mức hình phạt nghiêm, tương ứng với tính chất, mức độ của hành vi phạm tội mà các bị cáo đã thực hiện, cách ly các bị cáo ra khỏi xã hội một thời gian để có tác dụng giáo dục các bị cáo trở thành người dân tốt, đồng thời nhằm răn đe và phòng ngừa tội phạm chung trong xã hội.

[4] Về tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự: Không có.

[5] Về tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: Quá trình điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại điểm s khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự. Bị cáo Lý Thọ là người dân tộc Khơmer và gia đình thuộc diện hộ cận nghèo nên được hưởng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

[6 Mức hình phạt mà Kiểm sát viên đề nghị là phù hợp với tính chất, mức độ, hành vi phạm tội của các bị cáo nên Hội đồng xét xử chấp nhận.

7 Lời trình bày của người bào chữa cho bị cáo Nguyễn Hoàng P và bị cáo Lý Thọ là có căn cứ chấp nhận một phần.

[8] Xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp:

Đối với khối lượng ma túy còn lại sau giám định là 5,8 gam Methamphetamine trong 02 bì thư đã được niêm phong, ký hiệu 748/PC09 và 749/PC09 là vật chứng và chất cấm nên cần tịch thu, tiêu hủy;

Đối với 01 cân tiểu ly màu đen có ghi chữ Digital Scale; 10 ống thủy tinh dài 20cm, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế, 02 cái hộp quẹt màu đỏ là vật chứng, không có giá trị sử dụng nên cần tịch thu, tiêu hủy.

Đối với 01 điện thoại di động Iphone 6 màu hồng, Model A1688 FCCID BCGE2946AIC:579C-E2946A và 01 xe mô tô nhãn hiệu Vinashin (kiểu Wave) biển số 67T1-6942 màu trắng là phương tiện các bị cáo phạm tội nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước.

Đối với số tiền 3.600.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn R, trong đó có 400.000 đồng do bán ma túy cho bị cáo Nguyễn Văn P và Nguyễn Hoàng P mà có nên cần tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước, còn lại số tiền 3.200.000 đồng không liên quan đến việc phạm tội trả lại cho bị cáo Rành.

- Đối với số tiền 2.600.000 đồng thu giữ của bị cáo Nguyễn Văn P là tiền bị cáo có được do cầm điện thoại của bị cáo Lý T tại tiệm cầm đồ do ông Nguyễn Anh D làm chủ. Số tiền này bị cáo Nguyễn Văn P mượn bị cáo Lý T để chuộc lại điện thoại của mình. Tại phiên tòa, bị cáo Lý T yêu cầu được nhận lại nên cần trả số tiền 2.600.000 đồng cho bị cáo Lý T.

- Bị cáo Nguyễn Văn R nhiều lần bán ma túy cho bị cáo Nguyễn Văn P và Nguyễn Hoàng P thu lợi bất chính số tiền 500.000 đồng nên cần buộc bị cáo phải nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 500.000 đồng.

[9 Đối với đối tượng không rõ nhân thân, lai lịch có hành vi bán ma túy cho bị cáo R, đến nay chưa xác định được tên và địa chỉ cụ thể. Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an thị xã Tân Uyên tiếp tục điều tra xác minh và xử lý sau, là phù hợp.

[10] Về án phí sơ thẩm: Các bị cáo phạm tội và bị kết án nên phải chịu án phí hình sự sơ thẩm theo qui định của pháp luật.

Vì các lẽ trên, 

QUYẾT ĐỊNH

1. Tuyên bố bị cáo Nguyễn Văn R phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy”; các bị cáo Nguyễn Hoàng P, Nguyễn Văn P, Lý T phạm tội “Tàng trữ trái phép chất ma túy”.

2. Về hình phạt:

2.1 Căn cứ điểm b, i khoản 2 Điều 251; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 38 của Bộ luật Hình sự, - Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn R 10 (Mười) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/11/2020.

2.2 Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58, Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật Hình sự, - Xử phạt bị cáo Nguyễn Hoàng P 01 (Một) năm 03 (Ba) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/11/2020.

- Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn P 01 (Một) năm 06 (Sáu) tháng tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày 25/11/2020.

2.3 Căn cứ điểm c khoản 1 Điều 249; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 17, Điều 38, Điều 58, Điều 91 và Điều 101 của Bộ luật Hình sự, Xử phạt bị cáo Lý T 01 (Một) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tù tính từ ngày bắt để thi hành án.

3. Về xử lý vật chứng và biện pháp tư pháp: Căn cứ Điều 46, 47 Bộ luật Hình sự; Điều 106 Bộ luật Tố tụng hình sự, tuyên:

- Tịch thu, tiêu hủy trọng lượng ma túy còn lại sau giám định là 5,8 gam Methamphetamine trong 02 bì thư đã được niêm phong, ký hiệu 748/PC09 và 749/PC09; với 01 cân tiểu ly màu đen có ghi chữ Digital Scale; 10 ống thủy tinh dài 20cm, 01 bộ dụng cụ sử dụng ma túy đá tự chế, 02 cái hộp quẹt màu đỏ.

- Tịch thu sung vào ngân sách Nhà nước: 01 điện thoại di động Iphone 6 màu hồng, Model A1688 FCCID BCGE2946AIC:579C-E2946A, 01 xe mô tô nhãn hiệu Vinashin (kiểu Wave) biển số 67T1-6942 màu trắng và số tiền 400.000 đồng.

- Trả lại cho bị cáo Nguyễn Văn R 01 điện thoại di động Vsmart màu đen, ký hiệu ACB00078205 và số tiền 3.200.000 đồng.

- Buộc bị cáo Nguyễn Văn R phải nộp vào ngân sách Nhà nước số tiền 500.000 đồng.

- Trả lại cho bị cáo Lý T số tiền 2.600.000 đồng.

(Theo biên bản giao, nhận vật chứng ngày 01/4/2021 tại Chi cục thi hành án dân sự thị xã Tân Uyên, tỉnh Bình Dương).

4. Về án phí sơ thẩm: Căn cứ Điều 136 Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 23 Nghị quyết 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của y ban Thường vụ Quốc hội khóa 14 quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án, Buộc các bị cáo Nguyễn Văn R, Nguyễn Văn P, Nguyễn Hoàng P và Lý T mỗi bị cáo phải chịu 200.000 đồng (Hai trăm nghìn đồng) án phí hình sự sơ thẩm.

5. Về quyền kháng cáo:

- Các bị cáo, người bào chữa, người đại diện hợp pháp của bị cáo Lý Thọ có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án.

- Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan vắng mặt có quyền kháng cáo bản án trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc bản án được niêm yết công khai.

Nguồn: https://congbobanan.toaan.gov.vn

208
Bản án/Quyết định được xét lại
Văn bản được dẫn chiếu
Văn bản được căn cứ
Bản án/Quyết định đang xem

Bản án 59/2021/HS-ST ngày 22/04/2021 về tội mua bán trái phép chất ma túy và tàng trữ trái phép chất ma túy

Số hiệu:59/2021/HS-ST
Cấp xét xử:Sơ thẩm
Cơ quan ban hành: Tòa án nhân dân Thị xã Tân Uyên - Bình Dương
Lĩnh vực:Hình sự
Ngày ban hành: 22/04/2021
Là nguồn của án lệ
Bản án/Quyết định sơ thẩm
Án lệ được căn cứ
Bản án/Quyết định liên quan cùng nội dung
Bản án/Quyết định phúc thẩm
Mời bạn Đăng nhập để có thể tải về